0

From: tieutuong (HTHINH)
To: ALL

Bà Nội - Bài thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ lục bát 2016 - Hội nhà văn Việt Nam

Thuộc thể thơ lục bát truyền thống, bài thơ mang âm hưởng ca dao. Giọng thơ khi ngân nga dìu dặt như tiếng mõ chuông vang vọng, khi thì nhịp nhàng đều đặn như tiếng giã gạo. Âm thanh của nhịp sống cần lao hòa quyện với âm thanh của thiền đã tạo nên “tiếng nói” riêng của bài thơ. Mặc dù bài thơ được sáng tác theo hệ hình thi pháp truyền thống nhưng có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật thể hiện. 

BÀ NỘI

Nguyễn Thị Thùy Linh

Mõ chuông đã rải tím trời
Hoàng hôn rẽ tóc một người nằm mơ
Đồng xưa nối với bây giờ
Mảnh thon cái hạc ngẩn ngơ gọi chiều

Đỏ vườn cay mắt hạt tiêu
Mẹt nong bà sảy hoang liêu về đồng
Nỗi buồn đã kịp trổ bông
Quả chuông úp xuống thinh không cuộc đời

Bám quê bám ngọn lửa cời
Rặng tre xòe ngón gọi mời ngày xưa
Áo tơi manh nón chạy mưa 
Đội mùa tất tả sấm vừa tới nơi

Xế trăng lặn vết đồi mồi
Cối kia vẫn nhớ khôn nguôi nhịp chày
Bấy nhiêu tuổi một lần xay
Hồn như vỏ trấu tuột tay gạo già

Áo bà đã hóa phù sa
Ao sen lặng giữa chén trà mùa thu
Lời Kinh cũng móm mém như
Miệng bà dẫn hạt đi tu dặm trường

Hai tay dắt nhớ dìu thương
Về đêm về với vô thường trần gian
Hương nhu, bồ kết chưa tàn
Thấy bà chải tóc cuối hoàng hôn xa.

Sống nơi đô thành trong nhịp sống xô bồ, bon chen, tôi ao ước được đặt chân đến một miền quê yên tĩnh, được gặp gỡ con người chân quê chân chất, hiền hòa, tâm thiện. Hiện thực không cho tôi thực hiện điều ao ước đó nên tôi đành tìm đến thơ ca. May mắn , tôi được Nguyễn Thị Thùy Linh, một nhà thơ trẻ, đã dẫn tôi đến nơi này để gặp được con người ấy bằng bài thơ “Bà nội” do cô sáng tác (Bài thơ được giải nhất cuộc thi thơ lục bát năm 2016. Hội nhà văn Việt Nam).

Bài thơ được Nguyễn Thị Thùy Linh sáng tác trong cảm hứng tôn giáo (Phật giáo). Đây là cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ lục bát dài sáu khổ hai mươi bốn câu. Ngay từ câu thơ mở đầu, tác giả đã đưa ta đến một không gian đượm mùi thiền “Mõ chuông đã rải tím trời”.Một không gian lúc chiều tà nơi miền thôn dã thoáng đãng, buồn lặng“tím trời”. Cái buồn lặng vốn có của vũ trụ khi sắp kết thúc một ngày. Rồi trong khoảng ngày còn sót lại ngắn ngủi đó bỗng vọng lại âm thanh. Không phải là tiếng “ Gõ sừng mục tử lại cô thôn” (Bà Huyện Thanh Quan) mà là tiếng “mõ chuông” vang vọng từ một ngôi chùa nào đó. Tiếng mõ chuông “đã rải” lan tỏa trong khỏang thinh không ấy như điểm vào “khúc chiều” một giai điệu nhặt khoan gieo vào lòng người cảm giác thanh thản, yên bình. Giữa không gian ấy, hình ảnh người bà xuất hiện:

Hoàng hôn rẽ tóc một người nằm mơ
Đồng xưa nối với bây giờ
Mảnh thon cái hạc ngẩn ngơ gọi chiều

Đó là một lão nông vốn gắn bó với ruộng đồng “Đồng xưa nối với bây giờ”, mái tóc nhuộm màu hoàng hôn “Hoàng hôn rẽ tóc”, dáng hình thanh mảnh “Mảnh thon cái hạc”. Dáng vẻ của một lão nông mà đem ví với “cái hạc” nghe có vẻ chưa phù hợp lắm nhưng khi đối chiếu với “Mõ chuông” ở câu thơ đầu người đọc chợt hiểu ra : bà sống đời cần lao nhưng tâm hồn luôn vọng tưởng đến “mõ chuông”, đến cõi thiền. Đó là đời sống tâm linh thanh khiết, thánh thiện. Một tâm hồn như thế chỉ có thể ẩn sau “mảnh thon cái hạc” mà thôi.

Nhưng bà là một phụ nữ chân quê, vì thế ngòi bút của thi sĩ lại tiếp tục câu chuyện về bà : “Đỏ vườn cay mắt hạt tiêu/ Mẹt nong bà sảy hoang liêu về đồng”. Đọc câu thơ mà mắt tôi cũng chợt thấy “cay”. Không phải cay vì mùi nồng cay của tiêu nơi vườn nhà bà mà là vì thấy mắt bà rưng rưng trước cảnh hoa màu vườn nhà khô cháy dưới trời nắng lửa. Chỉ với một hình ảnh thơ đầy sáng tạo được xây dựng từ trường liên tưởng độc đáo (đỏ nắng- đỏ vườn, cay tiêu- cay mắt) , tác giả đã lấy đi bao giọt nước mắt đồng cảm của người đọc trước cảnh ngộ khắc nghiệt mà bà phải gánh chịu do thiên nhiên mang lại. Hết nắng lửa lại mưa dầm. Thế là “Áo tơi manh nón chạy mưa/ Đội mùa tất tả sấm vừa tới nơi”.

 Nói về con người có bản lĩnh chống chọi với thiên nhiên, dám “Đội sấm, đội chớp, đội cả trời mưa” thì đã được nói trong thơ cậu bé Trần Đăng Khoa. Mới đây có “ bà đội cả trời nắng to” (Nguyễn Vĩnh Tiến). Tác giả bài thơ này cũng nói về “đội” nhưng không phải đội nắng ,mưa, sấm ,chớp mà là “đội mùa”. Đối với người nông dân mùa màng chẳng phải là sự sống? Có ai mà không trân quý sự sống của mình? “ Đội mùa” đâu chỉ là trân quý sự sống mà còn là trách nhiệm bảo vệ sự sống ấy nữa. Mà để “đội mùa” thì phải “ chạy mưa”. Lúc này ta thấy cái “áo tơi”, “manh nón” của bà như có sức mạnh phi thường trong cuộc “chạy mưa”. Cái sức mạnh của ý thức và tình yêu đối với cuộc sống.

Cuộc sống của bà vốn gắn bó sâu nặng với bờ ao, gốc lúa, rặng tre. Đó là nơi chôn nhau cắt rốn cũng là đất tổ quê cha để lại bao đời “Bám quê bám ngọn lửa cời/ Rặng tre xòe ngón gọi mời ngày xưa”. Mặc dù cuộc sống đó quanh năm phải “dãi nắng dầm mưa”, “bán lưng cho đất bán mặt cho trời” nhưng bà vẫn “bám”, “một tấc không đi một li không rời”. Được sống và gửi mình nơi chôn nhau cắt rốn là hạnh phúc. Ông bà ta xưa nay vẫn nghĩ thế mà. Còn bà, bà có nghĩ gì không về cái “ ngày về” với đất ? Có:

Nỗi buồn đã kịp trổ bông
Quả chuông úp xuống thinh không cuộc đời

“Quả chuông úp xuống”- “Ngày về” của bà. Chốn bà về là “thinh không”, là hư vô. Ngày về của bà mang một không khí thiền. Nếu lúc sống , lòng bà luôn vọng tưởng đến “mõ chuông”, hướng về bến thiện thì đến lúc về bà cũng mong được về trong tiếng mõ chuông, âm thanh linh thiêng huyền bí của cõi thiền. Đây là điều tâm niệm sâu kín dễ gì bà thố lộ cùng ai vậy mà một người trẻ tuổi như Nguyễn Thị Thùy Linh đã “thấu hiểu” được lòng bà thì quả là cây bút “ già dặn”. Có ai khi nghĩ đến “ngày về” mà không buồn chứ. Nhưng “Nỗi buồn” của bà chỉ “kịp trổ bông” khi ý nghĩ ấy chợt thoáng qua thôi. Còn thực tế thì bà vẫn an nhiên với nhịp sống cần lao vốn dĩ của nghề nông “Xế trăng lặn vết đồi mồi/ Cối kia vẫn nhớ khôn nguôi nhịp chày”.

Đã qua rồi cái thuở trăng tròn, giờ tuổi bà đã “xế trăng”.Và cứ mỗi lần nhìn thời gian trôi qua “xế trăng lặn” bà lặng thầm đếm tuối già đến “ vết đồi mồi”. Già nhưng bà không hề rời “cối’’, “chày”, “xay”, cái công việc nhà nông vốn dĩ đã thành “nghiệp” của bà rồi. Mà đã thành “nghiệp” thì ai có thể đếm được có bao nhiêu “nhịp chày”, có biết mấy lần “xay”trong suốt chiều dài đời bà, chỉ biết rằng “Bấy nhiêu tuổi một lần xay/ Hồn như vỏ trấu tuột tay gạo già”.Lại là một hình ảnh thơ lạ có sức gợi về niềm hạnh phúc (hồn như vỏ trấu) khi nhìn thấy thành quả lao động (gạo già) hiện hình.

Nói về công lao của bà đối với cháu con, đối với cuộc đời, có người cầm bút bộc lộ trực tiếp “Thương nội lắm cả đời tần tảo/ Tháng năm dài cơm áo nuôi con” (Phương Trang). Cũng có thi sĩ nói bằng hình ảnh thơ. Với nhà thơ Bằng Việt, tình bà nồng ấm, tỏa rạng đầy ám ảnh trong lòng người cháu qua hình ảnh “Bếp lửa”. Mượn “Tiếng gà trưa” nữ sỹ Xuân Quỳnh đã làm thức dậy tình yêu và lòng biết ơn của người cháu đối với công lao nuôi dưỡng của người bà . Còn ở đây, Nguyễn Thị Thùy Linh cũng có cách nói riêng của mình: “Áo bà đã hóa phù sa”. “Áo bà” sao giống áo này quá :“Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa” (Nguyễn Duy). Phải, đó là chiếc áo nhuộm bùn, nhuộm mồ hôi, nhuộm nắng mưa bốn mùa. Chiếc áo ấy đã hóa “phù sa” màu mỡ cho cuộc sống thêm mỡ màu. “Áo bà” mong manh là thế nhưng có sức nặng của tình yêu và công lao của bà.

Ao sen lặng giữa chén trà mùa thu 
Lời kinh cũng móm mém như 
Miệng bà dẫn hạt đi tu dặm trường 

Tinh thần thiền - đó là thứ ánh sáng thiêng tỏa rạng cả bài thơ và đọng nhất ở ba câu thơ trên. Với hình ảnh “chén trà mùa thu” có lẽ tác giả muốn nhắc đến “Trà đạo”, một nét văn hóa đặc trưng và độc đáo của Nhật Bản trong việc pha và uống trà vào mùa thu. Ý nghĩa đích thực của Trà đạo là biểu hiện tinh thần hòa hợp với thiên nhiên. Ở đây “chén trà mùa thu” của bà thơm mùi hương của sen trồng ở ao làng. Đó là mùi của thiên nhiên thanh khiết, mùi của thiền (Sen biểu trưng cho Phật giáo), mùi của quê nhà (sen là quốc hoa). Mùi hương ấy đã “lặng” trong tâm hồn bà. Một tâm hồn tuyệt đỉnh thanh khiết, thánh thiện, cao quý! “Ao sen lặng giữa chén trà mùa thu” là câu thơ tuyệt bút thể hiện đời sống tinh thần của bà trước bờ ánh sáng của Chân-Thiện –Mỹ. Và chén trà ấy đã dẫn người đọc đi sâu hơn vào đời sống tâm linh của bà “Lời kinh cũng móm mém như/ Miệng bà dẫn hạt đi tu dặm trường”.Mở đầu bài thơ là “mõ chuông” đến gần kết bài thơ là “Lời kinh”, “dẫn hạt đi tu”,một tinh thần thiền có “Thủy”, có “Chung”.

Khổ cuối :
Hai tay dắt nhớ dìu thương
Về đêm về với vô thường trần gian
Hương nhu bồ kết chưa tàn
Thấy bà chải tóc cuối hoàng hôn xa.

Đến với thiền, con người thêm yêu đời, yêu người, yêu cuộc sống. “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” (Trịnh Công Sơn). Lòng bà “dắt nhớ dìu thương” bằng cả “hai tay” bao dung độ lượng.Sống hết mình với cuộc sống hiện tại dẫu biết rằng trần gian là “vô thường”, cõi tục là “đêm”. Có được một người bà như thế cháu con đã chúc phúc cho bà. Với bà “Hương nhu bồ kết chưa tàn” đâu. Đó là hương đời, hương yêu thương đã thấm đượm trong từng sợi tóc của bà và bà cũng đang tận hưởng nó. Vậy nên “ngày về” của bà hãy còn “xa” lắm. “Thấy bà chải tóc cuối hoàng hôn xa”. Mở đầu bài thơ là “hoàng hôn rẽ tóc”và kết thúc là “chải tóc cuối hoàng hôn”. Một hình ảnh thơ hô ứng trong kết cấu bài thơ đã hoàn chỉnh chân dung của người bà : sống vui trong cuộc sống cần lao ,bình lặng, thâm trầm với tâm thiền định với lòng bao dung.

Vẫn là hình ảnh người bà mang vẻ đẹp truyền thống: tần tảo, chịu khó, chịu thương, giàu đức hy sinh, giàu tình yêu thương như bao nhà thơ khác đã thể hiện nhưng ngòi bút của Nguyễn Thị Thùy Linh nghiêng về khai thác đời sống tâm linh của nhân vật hơn. Trong nhịp sống xô bồ, bon chen, con người đứng trước ngưỡng cửa tha hóa, nhiều người rất mong muốn có phút giây được sống trong không gian yên tĩnh, được ngồi dưới ánh sáng của thiền để tâm hồn mình được thanh tẩy, để lắng nghe ta, để nhìn lại mình, để hướng vọng về những giá trị tinh thần tốt đẹp để sống được tốt hơn thì thiết tưởng Nguyễn Thị Thùy Linh đã nói được điều này qua hình tượng người bà. Và cũng qua việc xây dựng hình tượng người bà ,tác giả đã bộc lộ tình yêu và lòng tôn kính, biết ơn đối với ông bà, cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, một thứ tình cảm tốt đẹp mà con người rất dễ lãng quên khi sống trong cuộc sống xô bồ của thời hiện đại. 

Thuộc thể thơ lục bát truyền thống, bài thơ mang âm hưởng ca dao. Giọng thơ khi ngân nga dìu dặt như tiếng mõ chuông vang vọng, khi thì nhịp nhàng đều đặn như tiếng giã gạo. Âm thanh của nhịp sống cần lao hòa quyện với âm thanh của thiền đã tạo nên “tiếng nói” riêng của bài thơ. Mặc dù bài thơ được sáng tác theo hệ hình thi pháp truyền thống nhưng có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật thể hiện. Nhiều thi ảnh lạ, đẹp, độc đáo được sử dụng phù hợp đã tạo được hiệu ứng thẩm mỹ cao và có sức gợi rất lớn cho người đọc. Ngôn ngữ thơ không sáo mòn, dễ dãi mà hàm ẩn ý nghĩa sâu xa. Cách biểu đạt ý tưởng cũng mới, lạ. Bài thơ “Bà nội” đã thể hiện một nội lực đầy đặn của cây bút trẻ Nguyễn Thị Thùy Linh.


http://vanhien.vn/news/ba-noi--bai-tho-dat-giai-nhat-cuoc-thi-tho-luc-bat-2016--hoi-nha-van-viet-nam-48146
EDITED: 6 Dec 2017 10:26 by HTHINH