0

From: OpLa
To: OpLa
Ngạc nhiên thứ tư.
Cuối tháng 8 năm 1976, bọn họ cho chúng tôi viết thư về gia đình. Vẫn cái cách hướng dẫn viết thư y chang bài bản như lúc ở trại Long Giao (Long Khánh) với Tam Hiệp (Biên Hòa). Vẫn có sức khỏe tốt, lao động tốt, học tập tốt, gia đình an tâm và chấp hành tốt những lệnh địa phương. Họ cho biết là các địa phương đã thông báo cho các gia đình được gởi quà cứ mỗi ba tháng một lần, với trọng lượng tối đa là 5 kí lô. Hầu hết anh em chúng tôi khi nhận thư gia đình đều có mẫu tin trên báo “Nhân Dân”, mới biết được trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn và Lai Châu có tất cả 82 trại, đánh số mà họ gọi là “hòm thư” từ AH 1 đến AH 82, thuộc Đoàn 776 giam giữ mà họ gọi là “quản lý giáo dục”. Bây giờ thì chúng tôi tin con số đó là thật.
Lần đi chợ thứ nhì cũng dùng đòn khiêng. Lần này sang chợ Yên Bái bằng con đò nhỏ chớ không phải bằng phà. Anh Nghĩa, anh Phán, anh Hồ Văn Thành (Đại Tá Quân Vận), anh Luân, anh Trần Văn Lễ (Đại Tá Quân Tiếp Vụ), và tôi. Yên Bái nhỏ lắm, nhà cửa lụp xụp, không thể gọi là phố xá được. Có một dãy khoảng chục căn bằng gạch, còn lại là nhà tranh. Các cửa hàng rải rác nhưng tất cả có ghi hàng chữ quốc doanh hẳn hòi. Tiệm may thì trên bảng ghi “Cửa hàng đo may”. Bên cạnh có “Cửa hàng bách hóa”, nhưng ôi thôi bên trong chỉ có khoảng chục cái kệ với lơ thơ vài chục mặt hàng, mà là hàng hóa thô kệch quá sức. Bên ngoài nhà chợ có nhà máy đường với cơ sở rất ư là ọp ẹp. Tôi nói nhỏ với anh Phán: “Phán ơi! Chợ gì mà giống trại lính quá.”
“Trông chẳng giống làng xã gì của mình cả.”
“Thị xã Yên Bái xã hội chủ nghĩa, chẳng khác buôn làng của đồng bào Thượng vùng Pleiku Kontum trong những năm 1950!” 
Chuẩn bị đi chợ lần thứ ba. Tên võ trang ra lệnh:
“Các anh đi lấy 2 xe cải tiến. Hôm nay mua cải bắp.”
Tôi nhìn qua nhìn lại có ý tìm xe cải tiến, hắn thấy tôi làm thinh mà cứ nhìn qua nhìn lại, hắn quát:
“Không đi lấy xe mà nhìn gì thế kia?”
“Tôi không thấy xe ở đâu làm sao lấy.” 
“Thế cái gì kia?” Vừa gắt gỏng hắn vừa chỉ chiếc xe cút-kít ở gần chuồng heo bên kia dòng suối. 
“Cái đó là xe cải tiến hả bộ đội?”
Hắn trừng mắt nhìn tôi: 
“Anh đùa à. Xe để đấy mà còn hỏi”.
“Không. Tôi không biết đó là xe cải tiến mà cán bộ”.
“Cái anh này buồn cười chưa. Thế các anh gọi nó là cái gì?”
‘Trong Nam chúng tôi gọi nó là “xe cút kít”. 
“Ra lấy đi, đừng có đứng đó mà lý sự”.
Chúng tôi qua chiếc cầu nhỏ, lôi hai chiếc cút-kít từ trong bờ rào ra. Chưa biết phải làm gì tiếp, hắn lại quát:
“Vào kho mượn giây để kéo. Đứng đó làm gì?”
Hóa ra chuyện như thế này. “Xe cải tiến” là chiếc xe mà những năm 50 người Sài Gòn gọi là xe “cút-kít”, loại xe của những toán sửa đường dùng chở gạch đá lặt vặt. Xe cút-kít bằng kim loại, có một bánh xe ở giữa phía trước, cái thùng xe bầu xuống, hai chân đứng phía sau với hai cái càng để đẩy. Với dạng xe đó được xã hội chủ nghĩa “cải tiến” phía trước có hai bánh xe (thay vì một), cái thùng xe hình chữ nhật (thay vì bầu), phía sau cũng có hai chân đứng, và hai cái càng để đẩy. Vật liệu đều bằng cây với ván. Theo họ nói thì trọng lượng xe khi chở đầy vào khoảng 150 kí lô. Chiếc xe cải tiến vận chuyển được những gì trong cái thùng hình chữ nhật đó, là do 3 “nhân lực” (không phải mã lực) kéo và đẩy. Hai sợi dây cột hai bên cái thùng phía trước cho hai người kéo, một sợi dây khác cột ở hai cái càng sau và người cầm càng máng lên vai cho hai cái chân xe cao khỏi mặt đất, và ra sức đẩy tới. “Xe cải tiến chuyển động bằng ba nhân lực” là như vậy. 
Đến đám bắp cải của hợp tác xã nào đó sát bờ nam Sông Hồng, trông thấy một cô gái mặc quần tây áo sơ-mi, mang giày ống, cổ quấn khăn quàng ấm, tóc uốn dợn phần đuôi. Nhìn chung, cô ta là cô gái sáng sủa so với hai cô gái đang trong rẫy bắp cải. Cô ta giao việc cho hai cô kia đang quần quật chặt gốc bắp cải và mang vào sân nhà lều. Tên võ trang bảo chúng tôi đứng chờ, hắn đến nói chuyện với cô gái mang giày ống chắc là về chuyện mua bán. Hắn trở lại anh em chúng tôi:
“Đấy là con gái của nữ đồng chí lãnh đạo Công An Huyện (Trấn Yên). Người ta đưa bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, cho lên xe cột lại. Các anh cẩn thận, không được nói linh tinh nghe chưa?” 
Nói xong, hắn đi về phía ngôi nhà gần bờ sông. Chẳng hiểu hắn muốn dọa chúng tôi hay ngăn cấm chúng tôi nói chuyện với con gái của Công An quận này? Khi nghe hắn nói cô này là con bà Trưởng Công An cũng hơi ớn, chỉ nghe hai chữ Công An đã cảm thấy lạnh lùng rồi, huống chi là con gái của Trưởng Công An, mà lại là Công An quận nữa chớ. 
Một cô lo cân. Cân xong, cô kia chất sang một bên, lúc ấy có tiếng của cô mang giày ống:
“Yến. Em gở hết những lá xanh bên ngoài rồi cân lại cho mấy anh đó.”
Thế là hai cô gái phụ việc làm lại từ đầu mà chẳng nghe càu nhàu gì cả, trong khi cô gái mang giày ống gọi chúng tôi đến nhận bắp cải. Đang chất bắp cải lên xe, cô ta đứng cạnh tôi: 
“Anh biết dùng lá cải bắp làm dưa ăn không?” 
Tôi dùng chữ bắp cải còn cô ta dùng chữ cải bắp. Thấy cô ta nói chuyện có vẻ nhẹ nhàng và tự nhiên, tôi đáp:
“Có. Tôi biết cách làm và cũng biết ăn nữa cô.”
“Tôi cho các anh những lá này, đem về cắt ra phơi một nắng,nấu nước muối đổ vào. Vài hôm là ăn được.”
“Không được đâu cô.”
“ Anh vừa nói anh ăn được mà?.”
“Cô phải nói với anh bộ đội võ trang mới được. Nếu cô không nói thì anh bộ đội võ trang cho là tôi ăn cắp, tôi sẽ bị phạt giam khi về trại.”
“Được. Tôi sẽ nói cho anh.”
Trong khi chờ tên võ trang trở lại, cô ta hỏi: 
“Quê anh ở đâu?”
“Tôi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mà trong Nam chúng tôi thường gọi là Miền Tây, nhưng tôi sống ở Sài Gòn lâu rồi cô.”
“Anh có thường được thư gia đình không?”
Tôi khựng lại, vì không hiểu cô ta hỏi thật hay dò xét. Con của Trưởng Công An quận mà. Thấy tôi ngập ngừng, cô ta nói:
“Tôi hỏi thật, anh đừng sợ. Tôi có vào Nam rồi. Tôi thấy người miền Nam thành thật mà dễ mến nữa. Tôi nói thật đấy.”
Tôi có phần vững dạ: 
“Vâng. Thỉnh thoảng thôi, vì người ta ấn định thời gian chớ không phải lúc nào cũng được gởi đâu cô.” 
“Lần sau các anh có ra đây, mang theo thư đưa tôi gởi cho. Các anh đừng sợ. Tôi hỏi thêm, các anh có bị người ta đánh không?”
Tôi nhìn thẳng cô ta và chậm rãi trả lời để dò xem cô ta hỏi thật hay giăng bẫy:
“Cám ơn cô. Chúng tôi không mang thư theo được đâu vì bộ đội võ trang xét kỹ lắm. Về đánh đập thì tôi và các bạn cùng Tổ với tôi chưa bị, những chửi rủa nhục mạ thì thường lắm, thường đến mức mỗi khi người ta bắt đầu thì chúng tôi thuộc luôn mấy câu sau rồi. Đối với chúng tôi, điều đó còn đau hơn đánh đập vì trình độ của chúng tôi ít nhất cũng phải tốt nghiệp trung học rồi cô.”
Cô ta đứng yên một lúc, chừng như có chút xúc động: 
“Họ có cho các anh ăn no không?” 
“Nếu tôi nói với cô là chốc nữa đây tôi sẽ ăn hai củ khoai mì mà cô gọi là sắn, để chiều về tôi ăn một lúc hai phần, cô có tin tôi không? Hai phần gộp lại là hai chén cơm độn bắp, đó là hạnh phúc của chúng tôi!” 
Cô ta xoay mặt ra bờ sông. Yên lặng. Tôi tiếp:
“Cô hỏi tôi những câu ẩn chứa tình người làm tôi cảm thấy ngại ngùng. Ngại ngùng vì vị trí giữa cô với anh em chúng tôi là một khoảng cách chính trị, mà chúng tôi là những người bị tù đày sau khi chúng tôi thua trận!”
“Vào Nam, tôi mới hiểu người miền Nam các anh. Trong ấy có người thân của gia đình tôi vào đó từ năm 1954, cũng ở trong quân đội như mấy anh. Tôi muốn giúp các anh điều gì chớ không có ý dò xét các anh. Bây giờ tôi phải lo công việc.” 
Nói xong cô ta trở lại nhà lều ở đầu đám rẫy. Có lẽ cô ta thấy tên võ trang đang đến nên cô ta không nói nữa thì phải? 
“Cám ơn cô.”
Tên bộ đội võ trang đến bảo chúng tôi ăn trưa rồi chuẩn bị về trại. Nói xong, hắn quay lại nhà lúc nảy. Sáu anh em chúng tôi đang ngồi ăn khoai mì, cô gái mang giày ống đi ngang, đứng nhìn:
“Các anh ăn thế làm sao no?”
“Tôi nói với cô rồi. Chúng tôi đâu có cách nào khác. Hai củ khoai này là phần ăn của mỗi anh em chúng tôi đây!”
“Các anh ráng giữ sức khỏe để về với gia đình. Chào các anh. Tôi về ăn trưa.”
“Chào cô.”
Phải nói rằng, sau cái lần nghe ông cụ già rửa xe đạp vạch trần sự tuyên truyền dối trá trên làn sóng phát thanh, đến tên quản giáo nói như trách chúng tôi có thiên đường mà không biết giữ, rồi đến lần mua chuối xanh nhìn thấy thái độ của ông cụ đối xử với chúng tôi rất tình người, hôm nay đến cô gái con bà Trưởng Công An quận mà họ gọi là huyện Trấn Yên này nói chuyện với chúng tôi ẩn chứa sự thông cảm với chúng tôi, cho phép tôi nhận ra rằng: “Không phải mọi người dân 20 năm xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc đều là cộng sản dù họ sinh ra và lớn lên trong chính sách giáo dục của cộng sản, ngay cả cô con gái của Trưởng Công An quận Trấn Yên này cũng vậy. Tôi nghĩ, chúng ta thua trận gần hai năm rồi, nhưng có vẻ như chúng ta thắng cộng sản về chính nghĩa thì phải. Bởi vì qua nét nhìn, người dân xã hội chủ nghĩa vùng rừng núi nơi đây dù chưa thể xem là tiêu biểu cho cả miền Bắc, nhưng rõ ràng họ cư xử với chúng tôi có đạo nghĩa. Tôi nghĩ, điều đó không mang ý nghĩa của lòng thương hại, mà là ý nghĩa của sự đồng cảm ý thức chính trị. Phải chăng, sự thua trận của chúng ta lại giúp cho người dân có cơ hội cũng như hoàn cảnh nhận định được chế độ nào là chính nghĩa? Trong cái rủi (ro) có cái may (mắn), trong cái nguy (hiểm) có cái cơ (hội) là thế. Chúng tôi vẫn tiếp tục quan sát để có được nhận định vững vàng hơn”. 
Tổ nấu bếp ở trại này là chuyên nghiệp, nghĩa là không luân phiên như ở trại Long Giao hay Tam Hiệp trong Nam. Anh Nguyễn Kỳ Nguyện (Đại Tá, Bộ Tổng Tham Mưu) nấu nước, anh Cao Văn Phước (Đại Tá Quân Vận) với anh Lê Ngọc Ẩn (Đại Tá Quân Cụ) nấu thức ăn, anh Nguyễn Hữu Phước (Đại Tá Quân Cảnh) nấu cơm. 
Cung cấp củi cho nhà bếp là Tổ của anh Tạ Đình Siêu (Đại Tá Thiết Giáp). Họ ấn định “chỉ tiêu” mỗi người/một ngày một bó từ 25 đến 30 kí lô. Ai lấy đủ thì nghỉ, bằng không thì chiều đi tiếp. Củi là chặt cây rừng trên các đỉnh núi, cột lại từng bó. Xuống chân núi, phải qua sự kiểm soát của tên võ trang. Hắn ngắm nghía xem chừng đủ chỉ tiêu thì hắn dắt về, giao cho nhà bếp. Các bạn trong nhà bếp, cứ đẩy nguyên bó cây xanh tươi đó vào lò, một lúc thì cháy thôi. 

Ngạc nhiên thứ năm.
Tổ chúng tôi là Tổ cơ động, nên hết việc này họ bảo làm việc kia mà hầu hết là leo núi đốn cây. Đầu tiên là đốn cây cung cấp cho mấy Tổ kia cất thêm căn trại. Cứ sáng sớm, mỗi người lãnh vài củ khoai mì cho vào túi áo treillis, lon guigoze nước chín xách tay, đến nhà kho gặp anh Tạ Văn Kiệt (năm 1955 là Quận Trưởng Quận Trà Ôn, Vĩnh Long) mượn dao. Tên võ trang dắt đến chân núi, hắn chờ ở đó và chúng tôi cùng leo núi. Tổ chúng tôi 20 người, khi lao động phải từ 17 người trở lên, nếu dưới con số đó thì tên quản giáo là Trung Úy Bật hạch hỏi đủ điều. Nhức đầu lắm! Vì những cây dùng làm cột nhà có đường kính từ 20 phân tây trở lên nên nặng lắm. Đến những cây dùng làm kèo làm đòn tay cũng không phải là nhẹ. Anh em chúng tôi kết lại thành từng nhóm để giúp đỡ lẫn nhau. Tôi, anh Hồ Văn Thành, anh Nguyễn Văn Sang (Đại Tá Tiếp Vận), anh Trần Văn Lễ (Đại Tá Tiếp Vận) một nhóm. Anh Sang với anh Lễ kém sức khỏe, khi lên núi xuống núi, hai anh bò nhiều hơn là đi, do vậy mà tôi với anh Thành trợ giúp. Lên đỉnh núi, thường khi phải theo đường đỉnh đi từ núi này sang núi kia, đôi khi phải xuống thung lũng tìm cây đúng với nhu cầu của Tổ cất nhà. Tôi với anh Thành đốn cây, anh Sang với anh Lễ tìm chặt dây cột lại thành bó để khi lăn xuống núi không bị văng tứ tung. Vác đến triền núi, hai người nắm chặt hai đầu bó cây, tôi chụm hai tay lại rồi nói thật to cho âm thanh phóng đi xa để báo động người bên dưới tránh xa dù có thấy hay không thấy người nào:
“Chú ý. Chú ý. Chúng tôi phóng cây xuống.” 
Báo động xong, tôi đếm đếm một, hai, ba, hai bạn cùng buông tay cho bó cây lăn xuống chân núi. Trông cái cảnh ấy gợi cho anh Lễ nhớ lại truyện Trung Hoa ngày xưa. Anh vắn tắt cho bớt nỗi nhọc nhằn:
“Tôi nhớ cái trận đánh mà ông Tiết Nhơn Quý chinh đông chinh tây gì đó, khi địch quân bao vây từ chân núi tiến lên, ông ta áp dụng chiến thuật “dứt dây lăn gỗ” giống như chúng mình vừa rồi đẩy bó cây xuống núi. Vậy mà ổng gây thiệt hại nặng nề cho quân địch vì không tránh vào đâu được.” 
Anh em cười xòa, cùng nhau xuống núi. 
Cũng cái hôm ấy, khi vác cây trên đường đỉnh để xuống núi, trông thấy một ông có lẽ cũng khoảng 50-60 gì đó đang ngồi ôm đứa con trai trong lòng, chúng tôi dừng lại nhưng cũng ngài ngại vì không biết thái độ ông ta đối với chúng tôi ra sao. Thấy ông không có vẻ gì phản đối, tôi hỏi:
“Cháu làm sao mà ông ôm cháu vậy?”
Nhìn chúng tôi một lúc, ông đáp: 
“Cháu nhà tôi bị sốt rét ông à! Ở đây người ta chỉ phát cho mỗi thứ thuốc xuyên tâm liên không trị được gì hết.”
“Nếu ngày mai ông với cháu có đến đây, tôi sẽ tặng cháu vài viên thuốc uống chống sốt rét. Ông cho cháu uống thử xem sao”.
“Cám ơn ông. Mai tôi chờ ở đây. Ông coi chừng mấy đứa bộ đội bắt gặp là nó phạt ông đó.”
Ngày hôm sau là ngày chót của Tổ chúng tôi đốn cây trên núi này. Tôi gặp ông già và đứa bé áng chừng 10 tuổi, nhưng thật sự thì cháu 16 tuổi. Thiếu dinh dưỡng mà! Tôi đưa ông già 10 viên Chloroquine và dặn mỗi ngày uống một viên. Tôi quá đổi ngạc nhiên về sự vui mừng của ông già:
“Ông cho cháu uống thử chớ tôi không dám chắc là cháu hết bệnh ngay đâu, vì tôi không phải là thầy thuốc.”
“Tôi mừng vì ở miền Bắc này có bao giờ tôi trông thấy thuốc ngoại đâu, tôi tin là cháu sẽ hết bệnh.”
Từ hôm sau tôi không có dịp gặp ông cho đến một hôm. Hôm ấy chúng tôi sang dãy núi khác để đốn cây chổm lợp nhà, làm vách nhà, và làm vạt giường nằm, xa hơn khu vực đốn cây làm cột nhà. Khi vừa lên đến đỉnh núi, tôi trông thấy ông với đứa bé mạnh khỏe. Ông nhìn qua nhìn lại, tôi đoán là ông sợ có thằng võ trang đi theo, tôi nói ngay:
“Bộ đội võ trang ở dưới đường chớ không theo chúng tôi. Ông sợ anh ta trông thấy phải không?”
Hai bàn tay ông già nắm lấy tay tôi thật chặt, miệng ríu rít:
“Cả gia đình tôi cám ơn ông. Cháu chỉ uống viên đầu tiên là hết sốt rét, tôi cho cháu uống thêm 2 viên nữa, mấy viên còn lại gia đình tôi chia cho hai đứa cháu cũng bị sốt rét. Tất cả chúng nó khỏe hết rồi. Thuốc ngoại hay lắm ông ơi!”
“Sao ông biết chúng tôi đốn cây ở đây mà chờ?”
“Mấy hôm tôi đến chỗ cũ không gặp ông, tôi phải tìm hỏi mãi mới biết là Tổ đốn cây của ông đã chuyển sang đốn chổm. Tôi đoán mấy ông đốn ở núi này nên tôi chờ. May quá, được gặp ông.”
Rồi ông xuống giọng như tâm tình:
“Gia đình tôi nghèo lắm, có cơm độn ngày hai bữa là khá rồi. Tôi có mang biếu ông hai củ lang (khoai lang) ông nhận giùm tôi. Ơn của ông to lắm.”
Vừa nói ông vừa bước đến gốc cây, dùng tay bươi đám lá khô lôi ra cái gói lá chuối, sau khi thổi bụi trên củ khoai, ông cầm hai tay run run đưa tôi làm tôi xúc động thật sự. Sự xúc động của tôi một phần vì hai củ khoai mà tôi nghĩ có thể ông trích trong phần ăn của gia đình ông, phần khác là thái độ cùng cách xử sự của ông đối với anh em chúng tôi nói chung và với tôi nói riêng. Ông đã lặn lội tìm cách gặp tôi để đền ơn mà không ngại núi rừng, cũng không sợ bị tên quản giáo hay võ trang bắt gặp, nếu không phải là tấm lòng thì ông đâu cần phải hành động như vậy. Nhưng ở đây tôi còn nhìn sang hai góc độ nữa: 
Một là góc độ chính trị. Rõ ràng là người dân xã hội chủ nghĩa nơi đây không phải ai cũng ủng hộ chế độ cộng sản. Sống trong lòng chế độ nhưng sự phản kháng vẫn tiềm ẩn trong lòng họ, có cơ hội thích hợp là họ bộc lộ như trường hợp ông già nêu trên. 
Và hai là góc độ kinh tế. Cả một quốc gia chỉ uống toàn thuốc “xuyên tâm liên” thì một dân tộc bệnh hoạn yếu đuối là đúng thôi! Tuy ông chưa biết công hiệu của viên thuốc ra sao, chỉ cầm trong tay viên thuốc ngoại quốc đã đủ làm cho ông tin tưởng con của ông hết bệnh rồi. Tội nghiệp cho người dân 20 năm xã hội chủ nghĩa này biết bao! 

Anh Nguyễn Phán đi lạc.
Mời quí vị quí bạn thử theo chúng tôi lên núi đốn cây chổm một lần nhé! 
Đường dẫn đến vùng núi có nhiều cây chổm có dòng suối mà chúng tôi phải lội qua. Lúc không mưa thì mực nước ngang lưng quần, khi mưa lớn hoặc mưa nhỏ mà liên tiếp vài ngày, mực nước có thể cao đến tận cổ. Những lúc như vậy, mọi người muốn mặc áo quần ướt hay khô là tùy. Muốn khô phải cởi trần trụi ra lội sang bên kia bờ mặc lại, nếu muốn ướt cứ để nguyên qua suối. Rồi bắt đầu leo núi. Độ dốc của núi này khá cao, có lúc chân bước lên là đầu gối chạm vào triền núi. Anh nào lên đến đỉnh trước thì ngồi chờ, đủ mới đi. Phải theo đường đỉnh qua ba ngọn núi, rồi tuột xuống lưng chừng thung lũng sâu mới tìm thấy rừng chổm. Thung lũng này dốc cao lắm, không thể bước được mà là tuột dốc từ từ. Đốn được một cây chổm đã khó vì nó chen chúc nhau rất dầy nên đưa được cây dao vào vị thế để chặt không phải dễ. Chặt xong phải giữ nó lại, nếu không thì nó tuột luôn xuống tận đáy thung lũng, vừa phí sức vừa không đủ số lượng mà tên quản giáo ấn định! 
Chưa hết, tôi phải chuyển ngược từng cây lên hướng đỉnh cho anh Thành. Hành động này rất nguy hiểm! Nếu chẳng may anh Thành ở trên nắm không chắc, cây chổm lao xuống sườn núi rất có thể nó đâm thẳng vào tôi một cách ngọt xớt vì cho dẫu trông thấy nó lao xuống cũng không dễ gì tránh được vì chỗ đứng rất khó xoay trở! 
Anh Thành có sức khỏe, rất tốt với bạn nhưng thị lực rất kém, suýt nữa anh bị cây chổm xé mặt khi luân phiên tôi đứng trên, anh đứng dưới đốn chổm chuyền lên tôi. Anh chặt nhát dao thật mạnh, cây chổm ngã dần xuống hướng triền núi, bất ngờ phần còn lại của gốc chổm tét làm hai và bật mạnh lên. Rất may, trước khi xuống nhát dao anh đứng xéo qua một bên để giữ thế, nếu không thì phần tét ra của cây chổm chém nát mặt anh chớ không vừa. Khi cây chổm bị tét ra nó nhọn và rất bén, nó mà đâm vào da thịt con người thì khiếp lắm quí vị quí bạn à! 
Nhiều lần chúng tôi trông thấy bọn quản giáo với võ trang làm heo, họ dùng ngọn cây chổm vạt nhọn, thọc vào cổ con heo. Cả cơ thể con heo oằn oại miệng la eng éc. Con heo càng la, họ càng ấn sâu khúc chổm vào, rồi kéo ra đẩy vào cho máu theo khúc chổm chảy vào cái thau phía dưới. Trông cách thọc huyết heo của họ dã man quá! Vậy mà họ cười một cách thích thú, cứ như họ vừa lập được thành tích vậy. Thật không thể tưởng tượng tính dã man của cái đám cháu của ông Hồ! 
Có một anh Thiếu Úy bị bắt khi Ban Mê Thuột bị tấn công chiếm đóng hồi tháng 3 năm 1975, chúng nó đưa anh ấy ra Bắc trước, và năm 1976 nhập vào chúng tôi trong Nam ra nhưng khác trại. Khi chặt chổm, chân trái của anh sát cây chổm mà cây dao của anh rất bén, anh lại còn trẻ nên khỏe so với chúng tôi. Chỉ một nhát dao cây chổm đứt lìa, nhưng bắp đùi của anh cũng bị chiều dài lưỡi dao phập vào khá sâu. Về sau chúng tôi không rõ cái chân của anh như thế nào nữa! 
Họ ấn định chúng tôi mỗi người 10 cây, dài ít nhất là 5 thước. Tuy “thịt cây chổm” không dầy bằng “thịt cây tre” nhưng 10 cây tươi cũng nặng lắm. Khi tuột xuống triền chỉ có con dao trên tay đã thấy khó khăn, khi chuyển được cây chổm trở lên càng khó khăn hơn nữa! Nhưng vẫn phải làm bằng tất cả sức lực cộng với mức độ nguy hiểm không phải là thấp! Trở về đến đỉnh cuối cùng, chúng tôi cùng nhau ngồi lại nghỉ chân trước khi xuống dòng suối, mạnh ai người ấy moi hai củ khoai mì trong túi ra ăn. Ăn khoai mì, ăn cả mùi mồ hôi chen lẫn trong mùi quần dơ với nước suối đục ngầu trong đó! Nhìn mặt trời ngã về tây khá lâu, chúng tôi đồng ý với nhau là xuống núi, đưa những bó chổm qua bên kia dòng suối. Chúng tôi tự quyết định với nhau, vì tên quản giáo với tên võ trang chờ bên kia suối. 
Tên võ trang đi tới đi lui nhìn mấy bó chổm. Xem chừng đủ số lượng ấn định nên hắn làm thinh. Xong hắn đếm từng người, hắn hỏi vội:
“Anh Hoa. Còn một anh nữa đâu?”
“Tôi làm sao biết bộ đội.” 
“Anh khẩn trương xem lại mất anh nào?” 
Tên này thường dùng chữ “khẩn trương” khi thúc hối chúng tôi nhanh lên, cho nên chúng tôi khi nói với nhau về hắn, không cần nói tên mà chỉ dùng chữ “khẩn trương” là hiểu.
Tôi kiểm lại, mãi một lúc mới nhận ra:
“Báo cáo bộ đội, còn thiếu anh Phán. Anh ấy yếu lắm, có thể vì vậy mà ảnh về chậm.”
Hắn quát ngay: “Các anh phải lên núi tìm. Khẩn trương lên.”
Trời đất ơi! Giờ này nghe nói đến lên núi, cơ thể như rã rời làm sao mà đi nỗi. Anh em chúng tôi nhìn nhau như muốn nói với nhau rằng: “Tôi đuối rồi”. Không ai nói năng gì cả. Hắn quát lớn hơn:
“Khẩn trương lên. Tại sao các anh ngồi yên đó?” 
Không nhìn nhau nữa mà mỗi người nhìn thẳng về phía trước, chừng như vừa lo cho bạn, vừa lo cho mình. Chẳng đặng đừng, tôi đứng dậy: 
“Báo cáo bộ đội. Tôi đi.”
“Hai anh nữa đi với anh Hoa. Đề phòng nguy hiểm.” 
Không hiểu chữ nguy hiểm mà hắn dùng, là hắn sợ thú rừng giùm tôi hay sợ tôi nhân cơ hội này trốn trại? 
“Không được đâu bộ đội. Các bạn tôi mệt lắm rồi, cần phải lấy sức vác chổm về nữa. Một mình tôi đủ rồi.”
Nói xong là tôi đi luôn. Anh Hồ Văn Thành chạy theo. Tôi nói gì anh ấy cứ một mực cùng đi với tôi. Thế là hai chúng tôi cởi áo quần lội qua suối. Lên đến đỉnh núi đầu tiên là tôi với anh Thành luân phiên, dùng hai tay chụm lại đưa lên miệng làm ống loa: “Anh Phán ơi! Anh Phán!” Tôi gọi không to lắm nhưng giữ hơi ngân dài để âm thanh đi được xa. Từ trên cao gọi xuống thung lũng âm thanh đi xa lắm. Cứ mỗi tiếng gọi, âm thanh từ các triền núi chung quanh dội lại rất rõ. Hết đỉnh núi này sang đỉnh núi kia, tôi với anh Thành đều cất tiếng gọi như vậy. Đến thung lũng thứ ba bên trái thung lũng cây chổm, sau “tiếng loa” của anh Thành, tôi nghe tiếng anh Phán như xa lắm:
“Tôi .. đây .. nè!”
“Anh nghe tiếng chúng tôi rồi, anh hãy đi về hướng chúng tôi đi.”
“Không .. được. Tôi .. không .. dám .. đi .. nữa. Tôi .. sợ .. lắm.”
“Anh ngồi yên đó. Khi tôi gọi thì anh lên tiếng để chúng tôi tìm đến anh.”
Chúng tôi theo đường mòn quanh co xuống thung lũng theo hướng có tiếng nói của anh ấy:
“Anh Phán ơi! Hãy lên tiếng giùm coi, chúng tôi xuống đến thung lũng rồi.”
“Tôi . đây . nè. Tôi . đây . nè.”
“Tôi nhận ra hướng của anh rồi. Anh đứng dậy và nắm cái cọng gì đó quơ qua quơ lại cho chúng tối thấy đi.”
Và rồi chúng tôi đến nơi. Hóa ra khi anh vác bó chổm lên đường đỉnh, lại không để ý đến ngã ba nhỏ xíu để quẹo trái theo đường đỉnh mà ra điểm tập trung, lại đi thẳng theo đường mòn xuống thung lũng bên này. 
“Tôi sợ quá hai anh ơi! Tôi nghĩ là chết ở đây chớ không thể nào về được. Nghe tiếng hai anh tôi mừng quá, nhưng không đủ can đảm đứng dậy đi về hướng mấy anh, sợ đi lạc xa nữa.”
“Bó chổm anh đâu?”
“Đằng kia kìa. Tôi không vác nỗi đâu. Về trại nó làm gì tôi thì làm.”
“Tụi mình lớn tuổi rồi, không nên để thằng nhóc đó nó mắng. Bây giờ tôi với anh Thành vác cho anh, nhưng từ chỗ tập trung về trại, anh cố gắng nghe.”
Chúng tôi về đến điểm tập trung, tôi thuật lại sự kiện anh Phán đi lạc, vậy mà hắn vẫn hạch hỏi:
“Tại sao anh đi lạc?” 
Tôi đỡ lời vì anh Phán đâu đã hoàn hồn:
“Bộ đội thông cảm, anh Phán còn run sợ lắm, chưa đủ bình tỉnh để trả lời bộ đội đâu. Nếu nhớ đường về thì đâu có ai đi lạc bao giờ.”
“Tất cả đi về.” Hắn quát nhưng nhẹ thôi.
Thừa lúc hắn đến phía trước kiểm lại từng người, tôi rút một cây anh Thành rút một cây cho vào bó của chúng tôi, giúp anh Phán đỡ nặng. Chúng tôi khệnh khạng rồi cũng về đến trại. Lội suối tắm xong, chờ lãnh phần ăn trưa lẫn phần ăn chiều gộp lại ăn một lần cho no. Anh em khỏe muốn được đi lao động “thông tầm” tức là đi từ sáng đến chiều, nhịn đói một chút để buổi chiều có được hai phần ăn, tức hai cái bánh bột mì luộc. Gần đây chúng nó cho chúng tôi ăn bánh bột mì luộc, trông như cái bánh bao nhưng hoàn toàn chỉ có bột mà thôi. Số bột mì này do một quốc gia nào đó ở Châu Âu (dường như là Thụy Điển) viện trợ, họ bán cho dân thay khẩu phần gạo + bắp, nhưng người dân không quen ăn nên đưa vào trại tù chính trị chúng tôi. Bánh bao bột mì luộc bằng cái chén nhỏ, chấm với muỗng nước muối và mấy cọng rau muống gọi là canh. Ở đây họ không cho ăn muối hột vì họ sợ chúng tôi trữ lại để trốn trại, nên họ buộc nhà bếp bỏ muối vào nồi đổ nước vô hòa tan, một muỗng nước muối là phần ăn mặn của mỗi tù chính trị chúng tôi. 

Ăn cắp thức ăn của trại. 
Thường ngày trong mỗi bữa ăn, anh Nghĩa chuẩn bị một rổ rau má. Rau má ở khu rừng này “mập” lắm, cọng lớn lá to. Anh Nghĩa rửa thuốc tím hẳn hòi. Cứ mỗi miếng ăn kèm theo một cuộn rau má chấm mắm tôm. Buổi chiều ba anh em chúng tôi -Anh Nghĩa, anh Điệp, và tôi- ăn no là nhờ độn rau má. Những hôm tôi đi thông tầm có hai phần ăn trong bữa ăn chiều, tôi chia làm ba phần nhưng anh Nghĩa với anh Điệp không nhận. Hai anh cho rằng tôi lên núi vất vả, cần giữ sức khỏe hơn. Một hôm anh Nghĩa lần mò sang bên kia triền núi, nơi có rẫy khoai lang họ đã đào lấy củ rồi, nhưng anh cũng mót được khoảng 20 củ chỉ bằng ngón tay út. Anh lại mang cái gà-mèn xuống tận thung lũng nấu được lon guigoze chè. Nuốt vào đến đâu nghe ngọt lịm đến đó. Thật lòng mà nói, không phải chúng tôi ăn, mà là chúng tôi thưởng thức đến tận cùng cái chất bột của khoai ngấm trong đường, cái chất ngọt của đường hòa trong chất the the của lá gừng ăn cắp. Cho nên chỉ ăn có chén chè nhỏ xíu mà thời gian bằng cả bữa ăn. Ngon lắm quí vị quí bạn à!
Do được ăn khoai lang, tôi nghĩ đến cách ăn cắp khoai mì mà người miền Bắc gọi là sắn. Cứ sau Tết Nguyên Đán, chúng nó bắt tù chính trị chúng tôi trồng khoai mì trên hằng chục ngọn đồi quanh trại giam, thế nhưng tên võ trang ngồi trên chòi cao dễ bắt gặp lắm, vì khi mình nắm cây khoai mì kéo lên thì ngọn cây lắc lư là nó báo động đến bắt ngay. Tôi nghĩ cách, và thực hành luôn. Tôi may cái túi nhỏ, dùng cây kim tây ghim vào bên trong nách áo. Miếng kim khí mài sẳn thay con dao đem ra ngoài trại giấu trước. Những khi lao động gần các ngọn đồi khoai mì, giờ trưa chui vào khoảng giữa, dùng miếng kim khí như lưỡi dao moi từ từ tránh đụng vào thân cây khoai mì, mỗi cây chỉ khứa lấy một củ thôi, vì lấy hai củ cây sẽ ngã khi có gió. Chỉ cần 2 hoặc 4 củ tùy lớn nhỏ là đủ cho một lần ăn. Lột võ chôn xuống đất ngay gọi là phi tang dấu tích. Xuống suối rửa, khứa nhỏ, cho vào cái túi gài trong nách áo. 
Đến giờ về, cứ thản nhiên vào cửa vì trên tay không mang theo gì hết nên không bị xét. Chưa xong đâu. Khi về trại, nhét vào lon guigoze, cho vào miếng đường tán, cho nước vào, đậy nắp lại, xách tòn teng đi xuống xuối như đi lấy nước vậy. Nhà bếp sát lối đi xuống suối. Vì họ cấm nấu, nên khi ngang nhà bếp phải nhìn trước ngó sau, lượm thanh cây nhỏ xỏ vào cái quai đẩy lon guigoze vào sát một bên lò đang nấu. Bước ra tức thì và xuống suối làm bộ rửa tay, rồi lên trại. Chừng một tiếng đồng hồ sau lại lảng vảng nhà bếp, thuận tiện là kéo lon guigoze ra, xách về. Đến khi tiếng kẻng ngủ, tôi với anh Nghĩa mới đem ra ăn. Ăn sớm sợ các anh khác thấy rồi nói tới nói lui đến tai tụi quản giáo hay võ trang biết được là nguy lắm. Nếu còn đường thì ăn chè, hết đường thì ăn khoai luộc, miễn no là được rồi.
Cũng vì ăn cắp mà tôi đã một lần bị hạch hỏi, nhưng từ đầu đến cuối đều chối nên không bị phạt biệt giam. “Biệt giam” là nhốt vào một chỗ chật hẹp, tay chân bị còng lại, khẩu phần ăn chỉ bằng một nửa. Mấy ngày họ mới cho ra ngoài tắm một lần. Nhưng không phải tôi ăn cắp khoai mì mà là ăn cắp trứng gà. Thật ra nói tôi ăn cắp cũng không hoàn toàn đúng, vì không phải tôi sang chuồng gà ăn cắp. Chẳng là một hôm khi giao củi cho nhà bếp xong, tôi về chỗ nằm thò tay lên cái kệ bằng cây chổm trên mái nhà để lấy quần áo xuống suối tắm. Dọc theo vạc giường cây chổm làm chỗ ngủ của chúng tôi, nếu nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì trên đó có cái kệ để đồ dùng. Tôi đụng vật lạ trên đó như là cái trứng, cầm xuống hóa ra là cái trứng gà. Tôi chưa biết phải làm sao, lúc ấy các bạn Tổ bên kia tắm xong đang vào nhà, tôi vội bóp bể võ và cho cái trứng tuột vào miệng ngay. Quí vị quí bạn ơi, tôi ăn sống cái trứng gà đó. Và ngày nào tôi cũng “ăn cắp” một cái trứng gà và ăn như vậy. Thật tình tôi không biết là con gà mái leo lên đó đẻ lúc nào, cứ có cái trứng là ăn mà chẳng cần biết gì thêm. Một hôm khi vào nhà thì con gà kêu oác oác rồi cục tác cục tác. Hóa ra chị gà ta hôm ấy đẻ “trễ giờ”, thay vì đẻ lúc sáng hay trưa gì đó, hôm nay đến chiều mới đẻ nên tôi mới có dịp trông thấy. Thế nhưng thời gian tôi được ăn cái trứng gà kéo dài chỉ được gần hai tuần thì tên quản giáo gọi tôi sang văn phòng trại: “Anh ăn cắp trứng bao lâu rồi?”
“Tôi đâu có ăn cắp trứng cán bộ.” 
Tôi có ý xỏ hắn khi tôi nhấn mạnh âm thanh trứng cán bộ!
“Con gà đẻ ở chỗ nằm của anh mà anh còn nói không có.”
“Không. Tôi không hề thấy con gà nào đến chỗ tôi cả. Nhưng mà gà đẻ ở chuồng chớ sao đẻ ở chỗ tôi nằm” 
Im lặng một lúc, hắn quát: “Tôi bắt gặp là anh biết tay tôi.”
Thế là con gà mái bị nhốt vô chuồng nên không sang đẻ ở chỗ nằm của tôi nữa. Cũng may, nếu nó không bị nhốt mà nó tiếp tục sang chỗ tôi để đẻ thì nguy. Tôi biết anh bạn đã “báo cáo” sự việc đó, nhưng tôi thấy không nên viết lại làm chi. Chuyện nhỏ mà.

Đốn cây.
Đốn cây rừng với cây chổm làm nhà, nhưng không có dây thì làm gì cột với kèo và đòn tay dính vào nhau. “Cây dang” (có thể tôi viết không đúng chữ) cũng là dòng họ của tre, trúc, chổm, dùng làm dây cột rất chắc. Nhưng loại này mọc ở những chỗ nguy hiểm lắm, đốn dang khốn khổ hơn đốn chổm nhiều. Dang chẻ được nhiều dây, rất dai.
Đây là đoạn đường chúng tôi lần mò từng bước đến rừng dang. Thời tiết vào đông, vùng núi rừng Tây Bắc này nhiệt độ khá thấp so với đồng bằng Sông Hồng. Nhóm chúng tôi đi đốn dang gồm năm người: Anh Huỳnh Thanh Sơn, anh Hồ Văn Thành, tôi, và hai anh nữa mà tôi không nhớ. Tên võ trang dắt đi khoảng 3 cây số trên đường liên tỉnh Hoàng Liên Sơn - Lai Châu, đến ngã ba có cái lò gạch bên đường là quẹo xuống suối với mực nước lưng chừng đầu gối. Lòng suối nhiều đá lởm chởm. Chúng tôi phải bì bỏm ngược dòng suối dưới những tàng cây phủ xuống đến mặt nước, có lúc phải dùng tay đẩy những cành lá sang một bên để có lối đi. Trên thí ánh mặt trời không soi sáng được bao nhiêu, dưới thì nước mùa Đông quá lạnh. Tấm vải nhựa dùng làm áo mưa phủ từ bờ vai xuống đến lưng quần, chống đỡ phần nào cơn mưa phùn lất phất từ lúc ra khỏi trại. 
Chúng tôi đi như vậy với khoảng cách tương đương đi trên đường, mới đến khu rừng cây dang. Thân cây dang lớn hơn cây chổm nhưng ngắn. “Thịt cây dang” rất dầy. Lóng cây dang ngắn so với lóng cây chổm hoặc cây nứa trong Nam. Độ rỗng ruột như cây tầm vông trong Nam. Võ có những đốm mốc chớ không trơn láng như cây chổm hay cây nứa. Cây dang không lên thẳng đứng mà lại oằn thấp gần như song song với mặt đất. Chui vào chặt được nó rất khó, kéo được nó ra khỏi “bà con dòng họ nó” càng khó hơn. Cuối cùng, mỗi người chúng tôi cũng có được một bó 6 cây nhưng gian nan hơn 10 cây chổm rất nhiều. Dưới cơn mưa nhẹ giữa đám rừng dang âm u với tiếng muỗi vo ve không ngưng nghỉ, chúng tôi lôi trong túi ra mấy củ khoai mì pha trộn nhiều thứ mùi bên trong với những vệt đen đúa bên ngoài. Sau khi gọi là ăn xong, vác bó dang lên vai bắt đầu bì bỏm xuôi dòng suối cạn lởm chởm đá. Đến ngã ba có lò gạch là hết đoạn đường suối, leo lên đường liên tỉnh, về trại. 
Với những cây rừng, cây chổm, cây dang, hơn 300 tù chính trị cấp Đại Tá chúng tôi đã nới nhà bếp vừa rộng vừa thoáng, gian trạm xá trông cũng khang trang. Tổ chúng tôi lại đi đốn cây chổm làm hàng rào vòng quanh trại để tự rào mình rào bạn! Lần này là loại chổm nhỏ bằng ngón chân cái hoặc lớn hơn chút ít. Họ ấn định mỗi người 60 cây. Loại chổm nhỏ này trên các đỉnh núi gần hơn loại chổm lớn, với lại 60 cây này chắc là nhẹ hơn 10 cây chổm lớn vì vừa nhỏ vừa ngắn. Nhóm chúng tôi gọi là trợ giúp nhau, vẫn là anh Sang, anh Lễ, anh Thành, và tôi. Lên đến đường đỉnh, tôi với anh Thành cứ đi trước chỉ cần bẻ nhánh cây dọc đường làm dấu cho anh Sang với anh Lễ từ từ đến sau. Đốn đủ cho 4 bó, cũng là lúc anh Sang với anh Lễ chặt dây xong. Cột lại chặt chẽ, chúng tôi vác trở lại triền núi để thả xuống như ông Tiết Nhơn Quí trong truyện dã sử Trung Hoa với chiến thuật “dứt dây lăn gỗ” vậy. Bốn bó xuống núi xong, tôi với anh Thành xuống trước, anh Sang với anh Lễ tuột xuống sau.
Kiểm điểm đủ người, tên võ trang bắt cả Tổ xếp hàng đôi để hắn kiểm soát số lượng. Nó đếm từng bó, bó nào thiếu nó đẩy mạnh qua một bên. Cuối cùng là nó mắng: 
“Các anh là những người phản quốc, các anh đã bóc lột nhân dân, bây giờ các anh còn qua mặt chúng tôi? Những bó tôi đẩy qua một bên, chỉ có hơn 50 cây thôi. Các anh bỏ cái tính gian dối đó đi, tập sống lương thiện để còn nuôi vợ nuôi con. Lần này tôi tha, lần sau các anh biết tay tôi.”
Tất cả chúng tôi, mặt người nào người nấy dài xuống một cách thảm hại, vì cái thằng nhóc con nó chửi như tát nước do thiếu vài cây chổm. 
Hắn nói như quát một cách khô khan: “Về trại”.
Bó chổm lúc nảy không nặng bao nhiêu, nhưng bây giờ thì quá nặng! Anh Lễ ra dấu bảo tôi chờ. Tôi chầm chậm đến khi anh lên ngang tôi. Anh nói:
“Theo anh, thằng chó đẻ này chửi tụi mình là do cá nhân nó hay là do chính sách của tụi nó?” 
“Thằng Bật quản giáo đứng im khi thằng võ trang chửi mình, tôi không cho là vấn đề cá nhân, mà là chính sách của tụi nó sỉ nhục mình, hay ít ra cũng là một loại chính sách không thành văn.”

Lại bệnh tưởng chết.
Hôm sau tôi vờ bệnh xuống trạm xá lấy thuốc uống. Khi đến Trại Cốc này, chúng nó bắt buộc chúng tôi phải gói tất cả các loại thuốc lại và đem gởi ở trạm xá, khi có bệnh thì đến xin nhận lại và uống tại chỗ. Anh Huỳnh Ngọc Lang (Đại Tá An Ninh Quân Đội) là người giữ thuốc của chúng tôi. Nhân đến trạm xá, lần đầu tiên trông thấy anh Dư Thành Nhựt (Đại Tá, Bộ Quốc Phòng) nhổ răng quá ư độc đáo, nhưng rất công hiệu. Một anh từ ngoài bước vào, tay bụm hàm bên trái, mặt nhăn nhó chứng tỏ là anh đau lắm. Đau răng mà quí vị quí bạn, nó thấu lên đầu chớ giỡn đâu! Anh Nhựt chậm rãi như lúc nào:
“Chịu hết nỗi phải không? Tôi bảo đưa tôi nhổ mấy hôm nay mà không chịu” 
“Anh làm ơn nhổ giùm tôi đi. Chịu hết nỗi rồi.” Anh bệnh nhân rên rỉ.
“Chờ tôi một phút là xong ngay.”
Mời quí vị quí bạn xem anh Dư Thành Nhựt nhổ răng như thế nào mà ảnh nói tỉnh bơ. Anh Nhựt bảo:
“Nhắm mắt lại, chừng nào tôi bảo mở mới mở nghe chưa.”
Anh nắm tay anh “bệnh binh” dẫn đến sát cánh cửa, lấy sợi dây nhỏ mà anh đã se sẳn, một đầu cột vào chân răng còn đầu kia cột vào cánh cửa. Anh nói:
“Anh vẫn nhắm mắt nhé, ngẩng mặt lên trần nhà đi.”
Anh “bệnh binh” vừa ngẩng mặt lên thì anh Nhựt đẩy mạnh cánh cửa nghe cái “phựt”, thế là cái răng theo sợi dây ra ngoài. Một chút máu rướm ra khóe miệng. Sau khi nhét tí xíu bông gòn vào lỗ chân răng để cầm máu, anh nói:
“Anh ngồi nghỉ một chút, súc miệng, tôi thay miếng bông gòn khác là về lán. Hôm nay anh ăn cháo, tôi qua nhà bếp ghi tên cho anh.”
Phải công nhận là anh Nhựt rất dạn tay. Tôi không rõ trước năm 1975, anh có học Đông Y hay không, nhưng khi anh được chỉ định vào trạm xá trại này thì anh rất nhiệt tình, từ cạo gió, nhổ răng, đi rừng tìm những cây dược liệu về cắt gọt phơi khô nấu nước cho anh em uống. Thật sự có bổ hay không thì không ai quả quyết, nhưng có điều chắc chắn là nếu uống hết một tô thì “no bụng”. Vì vậy mà nhiều anh em đến xin “nước bổ” của anh Nhựt. Tôi cũng vậy. 
Giả vờ bệnh, không ngờ lại bệnh thiệt. Tại chỗ nằm, anh Nghĩa bên phải và anh Nguyễn Phán bên trái tôi, mỗi người khoảng 7 tấc (0.7m). Áng chừng giữa đêm, vì chúng nó bắt gởi đồng hồ nên chúng tôi không biết giờ giấc gì hết mà chỉ áng chừng thôi. Tôi biết là tôi thức, nhưng không thể nhúc nhích được để lay anh Nghĩa hay anh Phán thức dậy giúp đỡ, cũng không phát âm thành tiếng để gọi hai anh ấy nữa. Tôi cứ ú ớ, và rên. Chắc cũng khá lâu. Bỗng anh Nghĩa giật mình vì tiếng ú ớ của tôi. Tôi nghe anh gọi “Anh Hoa. Anh Hoa”, nhưng không thể nào đáp lại được, quai hàm như cứng lại rồi. Anh Nghĩa lật đật ngồi dậy, một tay đỡ đầu tôi một tay anh tìm hộp dầu cù là, vì thường ngày tôi có nói với anh là tôi để nó dưới đầu nằm để khi anh ấy cần thì cứ sử dụng, cũng là cách tôi dự phòng trường hợp này sau lần bị “thương hàn” suýt chết ở trại nhà ngói. Anh xoa dầu vào tay, chân, ngực, cổ, và cạo gió. Tôi ấm người và tỉnh lại. Thở ra một cái thật mạnh, giống như hơi thở bị dồn nén bên trong bây giờ mới đẩy nó ra được là cảm thấy khỏe ngay. Anh nói:
“Anh bị trúng gió nặng quá. Tôi mà ngủ mê là anh dám đi luôn lắm.”
“Đúng. Lúc ấy tay chân tôi như đóng băng cứng lại, trong khi tôi cảm thấy nghẹt thở có lẽ vì không đẩy hơi thở ra ngoài được. Cám ơn anh rất nhiều. Đây là lần thứ hai tôi thoát chết nếu không có anh và các bạn.”

Trồng rau và phân bón. 
Từ đầu năm 1977, trại có đủ rau ăn. Rau mùa Đông là bắp cải, trái su-le. Sang Xuân, theo lệnh chúng nó, mấy Tổ trồng rau bắt đầu trồng rau muống. Tổ chúng tôi vẫn là Tổ cơ động nên trước mắt không liên quan đến trồng rau. Phân bón duy nhất là nước tiểu và phân người. Đi tiêu thì họ nói là “đi ỉa”, nhưng cái món hàng bị đẩy ra ngoài thì không nói “cứt người” mà gọi là “phân bắc”. Không biết chữ “phân bắc” có phải là phân của người xã hội chủ nghĩa miền Bắc, hay có ý nghĩa nào khác? 
Trong mỗi Tổ trồng rau -phần lớn các anh nhiều tuổi hoặc có bệnh khó trị- cử các toán khiêng nước tiểu từ hộc chứa gần các dãy nhà chúng tôi ở mà họ gọi là “lán”, và khiêng phân bắc đem chứa tại khu trồng rau. Tên quản giáo giao số lượng mỗi sáng ba khiêng và mỗi chiều hai khiêng. Nước tiểu thì có hai hộc chứa còn phân bắc chỉ có một cái cầu, cho nên giữa các Tổ trồng rau phải chia “quyền sở hữu” để xúc và khiêng. Mỗi hai anh có một hoặc hai cái thúng trét bằng nhựa đường để đừng rò rỉ, cái xẻng cán dài để xúc phân bắc và cái đòn để khiêng. Tôi chứng kiến cái cảnh thật là ngậm ngùi cho cái long đong nghiệt ngã của anh em chúng tôi! Nhưng không thể tránh cái ngậm ngùi đó được, vì khiêng không đủ số lượng chúng giao là đâu có yên với chúng nó.
Cái cầu tiêu hai chỗ ngồi dựng sơ sài bên sườn đồi. Chỗ ngồi đi tiêu có chiều cao khoảng 2 thước kể từ mặt đất để người đứng dưới dễ xúc “phân bắc xã hội chủ nghĩa ưu việt”, cho nên khi trong tư thế ngồi mà có những ngọn gió lùa mát ơi là mát. Tôi không nhớ từ đâu ra cái câu “nhất Quận Công nhì ỉa đồng”. Làm Quận Công sướng ở điểm nào không biết, chớ “ỉa đồng” được hưởng gió mát phải biết. Nhưng cái cầu tiêu này bốn bên có vách che cao chừng 6 tấc đủ che cái mông người tù, nên chúng tôi xếp hạng khi ngồi lên cầu này làm cái việc sản xuất phân bón xã hội chủ nghĩa ưu việt là “Quận Công hạng ba”. Khi hai anh Quận Công hạng ba ngồi bên trên -tôi là một- trong khi bốn anh đến đứng bên dưới xa cột cầu tiêu chừng 2 thước. Hai anh trưởng toán cầm cái xẻng cán dài chống trên nền đất, và giành quyền sở hữu: (trong bản ghi nhớ của tôi có ghi họ tên, nhưng tôi nghĩ là không nên viết vào đây) 
“Hôm nay là Tổ tôi, sao anh đến?”
“Thì anh cứ lấy thúng đó đi, thúng sau cho tôi vì Tổ tôi cần lắm.”
“Đâu được. Tổ tôi cũng cần như Tổ anh. Tới phiên Tổ nào thì Tổ đó lấy chớ chơi gì kỳ vậy.”
“Cho một thúng chớ có gì đâu mà anh la om sòm.” 
Rồi anh có quyền sở hữu hôm nay cũng đành “tặng” anh bạn Tổ kia một thúng “phân bón ưu việt” để giữ tình bạn tù với nhau trong ấm ngoài êm.
Thế rồi phân bắc do hai anh “Quận Công hạng ba” vừa sản xuất rơi “lạch bạch” xuống nền đất, lập tức cái xẻng thò vào xúc rẹt rẹt cho vào thúng. Xong, dựng xẻng đứng chờ. Hai anh “Quận Công hạng ba” làm xong công việc sản xuất, rời khỏi “nhà máy”. Hai toán khiêng vẫn đứng chờ những “quận công” khác vì chưa đầy thúng.
Tôi nghĩ quí độc giả đọc vài dòng chữ ngắn ngủi trên đây có thể phì cười vì thấy những chữ “hơi khó nghe” mà tôi sử dụng, nhưng khi viết đến những dòng chữ này tôi phải dừng lại và lặng yên trong giây lát … vì không nén được những giọt nước mắt xót xa thương cảm, thương cảm chính mình và thương cảm bạn mình! Hơn 30 năm qua, hình ảnh ấy vẫn nguyên vẹn trong tôi! 
Đến chuyện mất phân chuồng. Phân của trâu với bò gọi là “phân chuồng”. Trong Tổ chăn nuôi có hai anh giữ trâu, cũng là giữ phân trong chuồng để bón lúa. Buổi trưa lùa trâu về thì hởi ơi, cứt đái của trâu bị “kẻ trộm” vét láng te. Hai anh tức quá, đến các Tổ trồng rau rình. Nhận dạng được “số hàng đã mất”, càu nhàu một lúc rồi huề nhau chớ chẳng lẽ làm gì trước cái sự thể ấy.
Đến lượt tôi đi kiếm phân bò, nói huỵch tẹt là “cứt bò”. Tổ chúng tôi chuyển sang trồng bí rợ mà cộng sản gọi là bí đỏ. Tên quản giáo giao chỉ tiêu -lại chỉ tiêu- mỗi đầu người phải trồng 5 hốc bí trong một ngày ở một bên triền đồi gần trại. Phân bón là phân chuồng và “phân xanh”. Phân xanh, là loại cây tạp, đúng hơn gọi là bụi cây. Thịt mềm, cao khoảng 5 tấc đến 1 thước. Loại này thường mọc ở những khu rừng chồi. Nhổ đem về chặt từng đoạn 5 phân bỏ xuống hốc bí mà cộng sản gọi là “bón lót”. Xong, bỏ vào mỗi hốc 3 hột bí. Nói là 5 hốc bí nhưng vì triền đồi toàn đá nên vất vả lắm mới đào được. Gọi là làm phân xanh thì dễ thôi, nhưng lấy phân chuồng cũng lắm nhiêu khê. Nếu ăn cắp trong chuồng của hợp tác xã, nhỡ bị họ bắt thì bị phạt là cái chắc. Vì họ bênh họ chớ đâu bênh mình. Có Trại 8 gần Trại Cốc chúng tôi, chỉ khoảng vài cây số là cùng. Chuồng trâu ở đó được xem là lớn nhất trong vùng này, nhưng lại gần chòi canh nên không dám đến đó. Chúng tôi chia nhau, cứ hai người một cái khiêng đến các chuồng trâu bò, ngồi chờ khi nó được thả lên núi kiếm ăn thì quảy cái khiêng đi theo. Cứ nhìn vào cái đuôi của nó, khi nhổng lên là y như rằng nó “ị”. Cứ dùng xẻng mà xúc cho vào thúng, rồi đi tiếp. Sang ngày thứ nhì thì hai chúng tôi có chút kinh nghiệm, khi trâu với bò lên dốc chúng “ị” nhiều hơn là lúc xuống dốc hay đứng gặm cỏ. 
Có lúc chúng tôi luân phiên, một đứa ngồi chờ một đứa đi tìm bầy trâu bò. Gặp thì ơi ới gọi nhau cùng đi. Tôi mới ngồi một lúc, có hai cô gái đi trên đường. Đến ngang tôi, một trong hai cô dừng lại:
“Phải anh mua cải bắp ngoài Sông Hồng tháng trước không?”
Tôi ngờ ngợ một lúc mới nhận ra: 
“Đúng. Tôi đây cô. Cô đi đâu trong này?”
“Tôi đi mua heo con về nuôi. Các anh có khỏe không? Sao không thấy các anh ra ngoài ấy mua rau quả nữa?”
“Cám ơn cô. Anh em chúng tôi cũng khỏe. Vài tuần nay chúng tôi có đủ rau ăn nên trại không dắt đi mua.” 
“Sao anh ngồi đây một mình?”
“Tôi có người bạn vừa vào rừng. Một lát anh ấy trở ra.”
“Tôi đi nhé! Các anh giữ sức khỏe để về với gia đình. Chào anh.”
“Chào cô”. 
Đó là cô gái con của bà Trưởng Công An quận Trấn Yên mà tháng trước chúng tôi đến mua bắp cải của cô ta, cô ta cho chúng tôi rất nhiều lá cải còn xanh để làm dưa. Có thể đánh giá là cô ta không thù hận chúng tôi dù là con của Công An. Thế mới biết, dù chế độ có bịt mắt bịt tai bịt miệng mọi người như thế nào đi nữa, đến khi mọi người nhìn ra sự thật, con người vẫn là con người. Chẳng khác đem cây trúc kéo cong thật cong, khi buông ra, thẳng đứng vẫn là thẳng đứng. 
Khi viết lại đoạn trên đây, tôi không có ý nói đến con người mà từ con người dẫn đến sự kiện. Sự kiện một chế độ chính trị kéo trì bước tiến tự nhiên dẫn đến tình trạng một xã hội chậm tiến và lỗi thời. Đang vào những thập niên cuối của thế kỷ 20, một thế kỷ bùng nổ của thời đại điện toán nhanh chóng và chính xác, thời đại của truyền thông rộng khắp toàn cầu, thời đại của những con người sáng tạo thực tế, thời đại của hợp tác phát triển toàn cầu, thế nhưng Bộ Chính Trị cộng sản Việt Nam đã và đang tiếp tục đẩy dân tộc vào hoàn cảnh sống tồi tệ như vậy mà luôn miệng hô hào “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội!” Không thể nào hiểu được những con người cộng sản ấy! 

Gặp Lê Nghĩa Nhơn. 
Tổ chúng tôi lại leo núi lấy củi, nhưng không phải củi “bồ đề” mà là những cây khô trên các đỉnh núi hoang. Từ xa đứng nhìn, trông thấy cây khô thì vạch bụi rậm hay chen giữa rừng cây mà tới. Những cây khô trên những núi này thường là rất lớn, đường kính dưới gốc cở 3 tấc (0.3m) trở lên. Chiều cao có cây đến chục thước. Chặt bằng dao rất mệt, chặt ra từng khúc cũng bằng dao càng mệt hơn, mà khiêng về càng mệt hơn nữa. Dốc núi nhìn từ xa tưởng như thẳng đứng, đến gần tìm dốc thoai thoải một chút mà leo. Khi có được khúc cây khô là củi, phải khiêng đến “bãi phóng”. Chẳng biết ai đã làm bãi phóng, nó có đường rãnh vừa rộng vừa sâu, nếu có cái cây đường kính cả thước phóng xuống cũng được nữa. Ở những đỉnh núi trước đây chúng tôi đốn cây làm cột hoặc cây chổm làm nhà, chúng tôi cho nó lăn xuống chân núi, còn ở đây chúng tôi phóng những khúc cây khô làm củi từ trên đỉnh chạy theo đường rãnh xuống đến sát chân núi. Khi chạy nghe ầm ầm vang động cả khu rừng nghe dễ sợ lắm, vì chẳng may nó văng ra ngoài rãnh là nó va vô gốc cây rồi văng qua văng lại làm những anh đứng phía dưới phải tìm thân cây lớn ẩn núp. Đến chân núi, chúng tôi lăn nó ra bãi trống mới có thế để lên vai khiêng về trại. Mỗi khi dừng chân đỡ mệt, chúng tôi phải tìm thế dựng nghiêng nó vào thân cây, để khi tiếp tục thì hạ dần xuống vai anh Thành rồi dần dần nâng lên vai tôi. Nếu quẳng nó trên mặt đất, đến khi lên vai trở lại rất khó và nguy hiểm nữa, vì có thể bị nó đè lên người là gảy xương hoặc chết như chơi! 
Hết cây khô trên các đỉnh núi, tên quản giáo và tên võ trang “khẩn trương” dắt chúng tôi đi hết con đường đỉnh đó, rồi hắn chỉ:
“Các anh sang bên kia mà tìm”. 
Câu nói ngắn ngủn nghe nhẹ nhàng như vậy mà chúng tôi phải xuống thung lũng sâu mới trèo lên đỉnh núi bên kia được. Đến nơi, mồ hôi ướt đẫm cả áo quần mặt mũi! Ngồi nghỉ một lát, vạch bụi rậm từng bước đến cây khô. Ở đây rất nhiều cây khô mà lại nhỏ nữa, nên có được một bó 25 kí lô không mệt lắm. Đang vác bó củi xuống thung lũng sâu để sang núi bên kia rối leo lên đỉnh nghỉ mệt và ăn trưa, sau đó ra đường đá về trại. Chỉ mới xuống lưng chừng triền núi, nghe tiếng của một bạn từ triền núi bên kia:
“Phải anh Hoa đó hông?”
Tôi nhướng mắt nhìn một lúc, nhận ra dáng vấp của Lê Nghĩa Nhơn, người bạn trẻ của tôi:
“Trời ơi! Anh Hai nè Nhơn”.
Lê Nghĩa Nhơn, người yêu của cô em gái xa xôi của vợ chồng tôi: Nha Sĩ Phạm Thị Minh. Nhơn nhanh chân tuột xuống thung lũng rồi trèo lên chỗ tôi ngồi ở lưng chừng triền núi. Tội nghiệp, trẻ mà cũng thở hổn hển! Anh em ôm nhau mà rơi nước mắt! Không ngờ lại gặp nhau giữa rừng già hoang vu trên đất Bắc! Chúng tôi tạt qua một bên có khoảng đất nhỏ bằng phẳng. 
“Ngồi đây Nhơn. Em ở trại nào?”
“Em ở trại 8, gần bệnh xá Liên Trại đó anh”.
“Anh biết trại đó. Đi trên núi nhìn thấy máng dẫn nước suối từ triền núi bên kia lận mà. Em có được thư nhà và thư của Minh không?” 
“Có anh. Em mới nhận gói quà của Minh cách đây vài tuần. Anh còn ngồi đây bao lâu?”
“Anh ở ngoài rừng này đến chiều mới về. Anh đi thông tầm mà, nếu về sớm nghỉ sớm. Bây giờ anh phải đem bó củi này qua núi bên kia rồi trở lại tiếp anh bạn vác thêm bó củi nữa. Sau đó ăn trưa rồi mới về. Mà chi vậy?”
“Anh để em vác bó này qua bên kia rồi em về trại lấy thức ăn đem lại cho anh.” Nói xong, Nhơn vác bó củi giùm tôi xuống thung lũng …”
Trong lúc tôi và các bạn ngồi ăn khoai mì thì Nhơn trở lại. Có lẽ Nhơn chạy nhiều hơn đi, nên mồ hôi ướt cả áo.
“Anh giữ cái lon guigoze này xài. Bên trong có 2 tán đường của Minh gởi. Còn củ khoai mì là em ăn cắp trên đồi và nấu tối hôm qua.”
“Đào trộm khoai mì của tụi nó cũng là “nghề” của anh mà. Nhơn, ăn với anh một nửa đi”. 
Tôi bẻ làm hai, đưa Nhơn một nửa nhưng Nhơn nhất định không nhận:
“Em no rồi anh. Khoai này nhiều bột, anh ăn với đường tán ngon lắm. Em có đem theo nước trà xanh cho anh đây”.
Tôi ăn củ khoai mì một cách chậm rãi để góp thêm phần “trang trải” cái bao tử đang đói, cũng vừa để thấm thía dòng tình cảm của Nhơn với Minh đối với tôi trong tình cảnh tù đày!
Trà xanh mà Nhơn nói là hái trộm đọt trà của chúng nó, cho vào nước sôi có mùi thơm thoang thoảng, dễ chịu. Trong thời gian ở trại nhà ngói chúng nó bắt đi hái trà, ngày nào tôi cũng ăn cắp rồi cột quanh hai ống chân. Tối về trại lén nấu lon guigoze nước trà xanh, tôi với anh Nghĩa nhâm nhi chẳng khác các bạn nhâm nhi rượu đế. Tháng sau đó, tôi được tin đa số các anh ở trại 8 đã bị chuyển lên Liên Trại ở Thác Bà (nơi có nhà máy thủy điện) xây dựng “khu kinh tế mới” cho người dân vùng biển lên lập nghiệp. Trong số chuyển trại có Lê Nghĩa Nhơn. Từ đó về sau tôi không gặp lại Nhơn.
Mãi đến năm 1991, khi vợ chồng tôi sang Houston, Texas, Hoa Kỳ, được biết Lê Nghĩa Nhơn đã ra trại tập trung và vượt biển sang đây. Nhơn với Minh đã thành hôn trên đất Mỹ. Thế nhưng, chẳng bao lâu sau đó bị bắn chết trong lúc lái xe trên đường từ chỗ làm về nhà.

Ngạc nhiên thứ sáu.
Đến vụ mùa, Tổ chúng tôi chuyển sang làm ruộng. Tổ trồng rau cứ trồng rau, Tổ nhà bếp cứ nấu nướng, Tổ lấy củi chỉ biết lấy củi, Tổ thợ mộc tối ngày cứ đục đẽo, nhưng Tổ cơ động chúng tôi phải làm mọi việc không thuộc những Tổ vừa nói.
Vùng ruộng mà chúng tôi phải làm là ruộng bậc thang ở đất triền chớ không bằng phẳng như đồng ruộng miền Nam. Ngăn cách giữa bậc thang này với bậc thang kia là một đường đê nhỏ bao quanh giữ nước cho bậc thang trên. Chân của hai triền đồi giáp nhau tạo thành đường thông thủy. Mỗi người lãnh một cây cuốc với “chỉ tiêu” 50 thước vuông (50m2), đứng hàng ngang mà cuốc cho đất vỡ lên rồi san bằng. Tiếp theo, cứ hai người một cái gàu với hai sợi dây hai bên miệng gàu, cùng nhịp nhàng đưa nước từ đường thông thủy lên bậc trên, hai anh bên trên lại đưa tiếp lên bậc thang trên nữa. 
EDITED: 8 Oct 2018 18:20 by OPLA