Ký sự trong tù

From: OpLa 8 Oct 2018 10:40
To: ALL1 of 34
Ký sự trong tù 

Phạm Bá Hoa
********
Houston, Texas, Hoa Kỳ
• Tác giả giữ bản quyền. Mọi trích dịch hoặc chuyển ngữ cần được tác giả đồng ý bằng văn bản.
• Ấn bản đầu tiên năm 2008.
• Lưu trữ tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ dưới số TXU 1-364-154, July 9, 2007.

© 2008 All Rights Reserved
This book has been registered at the Library of Congress July 9, 2007 (TXU 1-364-154). Neither this publication nor any part of it may be copied or reproduced in any form or by any means or translated into other languages without the consent of the author.
First edition printed in 2008.

********

ISBN 978-0-9648940-4-4


Nội dung

Lời nói đầu
1. Việt Nam 1858-1975
2. Trước ngày vào trại tập trung.
3. Đường vào trại tập trung.
4. Trại tập trung Long Giao
5. Trại tập trung Tam Hiệp.
6.Trại tập trung Yên Bái. 
7. Trại tập trung Nam Hà.
8. Ra khỏi trại tập trung
9. Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
10. Xuất ngoại tị nạn tại Hoa Kỳ
Lời nói cuối
Tác giả 


lời nói đầu

*****


Thưa quí vị, quí bạn, 
Trong quyển “Đôi Dòng Ghi Nhớ”, hồi ký chính trị từ năm 1963 đến trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, trình bày dưới dạng “chuyện kể” về những lệnh mà tôi nhận, những việc mà tôi làm, và những gì mà tôi nghĩ từ cuộc Đảo Chánh ngày 1/11/1963, cuộc Chỉnh Lý ngày 30/1/1964, cuộc Biểu Dương Lực Lượng ngày 13/9/1964, cuộc Đảo Chánh ngày 19/2/1965, quân đội nhận trách nhiệm Lãnh Đạo Quốc Gia từ ngày 19/6/1965, cuộc Khủng Hoảng Chính Trị từ ngày 9/3/1966, đến Những Tháng Cuối Cùng, Những Ngày Cuối Cùng, và Giờ Thứ 25 của cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ. Nhà xuất bản Ngày Nay tại Houston đã ấn hành 4 lần: Năm 1994, 1995, 1998, và năm 2007. Tôi không vượt thoát được vì ước tính tình hình sai, nên bị cộng sản giam giữ trong các trại tập trung cùng với ít nhất là 222.809 bạn đồng đội mà họ gọi là “học tập cải tạo”. 

Với quyển “Ký Sự Trong Tù” này, trong một góc độ nào đó, tôi cố gắng ghi lại nét nhìn của tôi khi quân cộng sản từ ngoài rừng tràn vào thủ đô Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975, với nội dung chính được dựng lại một số góc cạnh xã hội của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 20 năm ngang qua những lần tiếp xúc với người dân và người lính cộng sản trong thời gian tôi bị giam tại các trại tập trung, đến vấn đề giáo dục trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một xã hội mà mọi người bị chế độ độc tài cộng sản bịt mắt bịt tai bịt miệng, riêng hằng nửa triệu gia đình công dân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi mà cộng sản gọi là “ngụy quân ngụy quyền” càng bị đối xử hà khắc nghiệt ngã trong xã hội đó. 
Biết rằng, đã có một số quyển hồi ký dựng lại nhiều góc cạnh khác nhau trong các trại tập trung và trong xã hội bị cộng sản cai trị, hiển nhiên là mỗi tác giả có hoàn cảnh khác nhau, nét nhìn khác nhau, nét nghĩ khác nhau, nhưng cho dù có khác nhau thế nào đi nữa, mọi hoàn cảnh đều bắt nguồn từ bản chất của lãnh đạo cộng sản Việt Nam độc đảng, độc tài, độc quyền, và độc ác. Rất mong những nhà viết sử sẽ gom góp được nhiều loại hồi ký phổ biến qua nhiều dạng khác nhau, để tạo nên dòng sử trung thực, đặc biệt là giai đoạn 1945 về sau. 

Dòng lịch sử Việt Nam từ xa xưa đến nay, cho dù chế độ phong kiến hay thực dân, chưa bao giờ người dân bị cai trị khắc nghiệt cho bằng chế độ cộng sản Việt Nam. Họ luôn miệng tự xưng là cách mạng, nhưng thực chất sinh hoạt trong xã hội xã hội chủ nghĩa, chẳng những không có gì khác với bản chất những triều đại vua quan phong kiến Trung Hoa cai trị đất nước ta xấp xỉ một ngàn năm, mà bản chất đó còn cộng thêm tính gian manh xảo trá và cướp đoạt rất tinh vi. Cộng sản Việt Nam với bản chất không phục vụ người dân mà họ sử dụng người dân như một loại phương tiện đa dụng để phục vụ đảng, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng một nền giáo dục chỉ đào tạo những tầng lớp thần dân để tuân phục họ, và họ luôn trưng dẫn đảng cộng sản như tấm bình phong che chắn bản chất của chúng. Cộng sản cưỡng bách người dân phải trả cái giá ngoài sức tưởng tượng của những con người tử tế trong xã hội! 

Với lịch sử, đây là tội ác ghê tởm nhất của các nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam mà trong thời kỳ hậu cộng sản ít nhất phải hai thế hệ sau đó, giáo dục mới đào tạo được những thế hệ tử tế để cùng nhau khôi phục một xã hội nhân bản phục vụ người dân, trên nền tảng văn hoá Việt Nam kết hợp hài hòa với khoa học kỹ thuật thế giới thích ứng để xây dựng và phát triển đất nước. 

“Ký Sự Trong Tù” kết thúc khi vợ chồng tôi rời Việt Nam ngày 29 tháng 3 năm 1991 trong đợt HO5, tị nạn chính trị trên đất nước Hoa Kỳ ngày 5/4/1991. 
Thưa quí Anh mà tôi nêu tên trong quyển Ký Sự này, vì tôi trình bày dưới dạng chuyện kể, sự thật mà tôi ghi chép cũng như còn nhớ như thế nào tôi kể lại như thế ấy, nên tôi đã dùng tên thật của quí Anh như là nhân chứng của từng sự kiện. Đáng lẽ phải xin phép quí Anh trước, nhưng vì không có địa chỉ cũng như điện thoại của quí Anh nên tôi không thể thực hiện, rất mong được quí Anh vui lòng thứ lỗi. Chân thành cảm tạ quí Anh. 
Bây giờ mời độc giả vui lòng theo tôi vào chuyện …

Houston, Texas, Hoa Kỳ.
Bắt đầu viết ngày 02/01/2006.
Cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa.
Cựu tù nhân chính trị.
HO 5

 
From: OpLa 8 Oct 2018 10:43
To: OpLa 2 of 34
- một -

Việt Nam 1858-1975


******


Việt Nam 1858-1954

Năm 1858 là năm thứ 11 của Vua Tự Đức, bị thực dân Pháp dùng Hải Quân tấn công Đà Nẳng. Sau khi thiết lập được bàn đạp trên đất liền, từ đó Pháp đánh chiếm nhiều nơi khác trên lãnh thổ Việt Nam. Năm 1867, sáu tỉnh miền Nam là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, trở thành thuộc địa của Pháp. Lần lượt họ đánh chiếm toàn cõi Việt Nam bằng những phương thức thích hợp. Năm 1883, Việt Nam bị Pháp chia làm 3 Kỳ: Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, với 3 chế độ cai trị khác nhau về cách dùng chữ nhưng thực chất đều là thuộc địa. 

Tháng 9/1939, Phát xít Đức tấn công chiếm đóng Ba Lan (Poland), mở màn cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai trên vùng đất Châu Âu. Ngày 7/12/1941, Nhật Bản tấn công Hạm Đội 7 Hoa Kỳ tại quần đảo Hawaii, mở màn cuộc chiến tranh vùng Châu Á-Thái Bình Dương. Cùng lúc, Đức tuyên chuyến với Hoa Kỳ. Ngày hôm sau, Hoa Kỳ chánh thức tuyên chiến. Nhật Bản yêu cầu Pháp cho mượn lãnh thổ Việt Nam để thiết lập những căn cứ quân sự trong chiến lược đánh chiếm các quốc gia khu vực Đông Nam Á. Do yếu thế, chánh phủ Pháp chấp nhận lời yêu cầu có tính cách cưỡng bách của Nhật Bản. Ngày 9//3/1945, quân Nhật đảo chánh Pháp, chánh phủ Trần Trọng Kim ra đời với mô hình chánh phủ phương Tây.

Ngày 6/6/1944, quân đội Đồng Minh mà Hoa Kỳ là lực lượng chánh, đổ bộ lên bờ biển Normandy phản công chiếm lại nước Pháp. Từ bàn đạp đó, quân đội Đồng Minh tiến đánh quân phát xít Đức & Ý. Với cuộc tiến quân như vũ bão, quân đội Đồng Minh nhanh chóng chiến thắng khắp nơi, và cuối cùng đánh bại quân phát xít Đức. Ông Hitler, lãnh tụ phát xít Đức, tự sát trong hầm chỉ huy dưới lòng thủ đô Đức quốc ngày 30/4/1945. Chiến tranh vùng Châu Âu chấm dứt. 
Ngày 15/8/1945, Nhật Bản đầu hàng Hoa Kỳ sau khi hai thành phố Hiroshima và Nagasaki bị bom nguyên tử, và chiến tranh vùng Châu Á-Thái Bình Dương chấm dứt từ đó. 

Chánh phủ Trần Trọng Kim với các đảng chính trị khuynh hướng quốc gia, tổ chức mít tinh mừng độc lập, nhưng với bản chất gian trá xảo quyệt của cộng sản, ông Hồ Chí Minh biến cuộc mít tinh đó trở thành của đảng cộng sản tổ chức. Ông Hồ mời gọi các đảng chính trị nói trên tham gia chánh phủ liên hiệp, và uy hiếp vua Bảo Đại thoái vị. Khi đứng vững, ông Hồ đã lần lượt loại trừ các đảng chính trị quốc gia để chỉ còn lại đảng duy nhất cầm quyền là đảng cộng sản Việt Nam. 
Đồng Minh cử quân đội Trung Hoa (thời Tổng Thống Tưởng Giới Thạch), cùng với quân đội Anh và Ấn Độ đến Việt Nam thi hành nhiệm vụ giải giới quân Nhật. Quân Trung Hoa phụ trách từ vĩ tuyến 16 trở lên Bắc, quân Anh với Ấn Độ phụ trách từ vĩ tuyến 16 trở xuống Nam. Quân Pháp đã theo chân cánh quân của Anh với Ấn Độ, trở lại chiếm đóng Việt Nam.

Sau những lần thương thuyết thất bại, chiến tranh giữa Việt Minh cộng sản với thực dân Pháp bắt đầu từ 19/12/1946. Việt Minh cộng sản rút vào rừng núi Bắc Việt. 
Năm 1947, khi Pháp bắt đầu sa lầy trong chiến tranh tái chiếm 3 nước Đông Dương (Việt Nam, Cam Bốt, Lào), chánh phủ Pháp tuyên bố sẳn sàng thương thuyết với các tổ chức chính trị Việt Nam. 
Ngày 09/09/1947, sau khi tiếp 24 nhà chính trị Việt Nam và sau khi thương thảo với chánh phủ Pháp, cựu Hoàng Bảo Đại tuyên bố sẳn sàng đứng ra hòa giải giữa các tổ chức chính trị quốc gia. 
Ngày 05/06/1948, trên chiến hạm Duguay Trouin của Pháp trong Vịnh Hạ Long, Quốc Trưởng Bảo Đại cùng với các nhân sĩ và tổ chức chính trị chứng kiến Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân ký Thỏa Ước với Toàn Quyền Đông Dương Bollaert. Theo đó, Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp.
Ngày 08/03/1949, tại điện Elysée, Tổng Thống Pháp Vincent Auriol với Quốc Trưởng Bảo Đại ký thỏa ước. Một lần nữa, chánh phủ Pháp công nhận quốc gia Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp và có quân đội riêng.
Ngàỵ 25/04/1949, cựu Hoàng Bảo Đại từ Pháp về Việt Nam.
Ngày 01/0/1949, thành lập chánh phủ quốc gia Việt Nam. Cựu Hoàng Bảo Đại giữ chức Quốc Trưởng. 
Ngày 21/01/1950, Quốc Trưởng cử ông Nguyễn Phan Long thành lập chánh phủ.
Ngày 04/02/1950, chánh phủ Hoa Kỳ công nhận chánh phủ quốc gia Việt Nam.
Ngày 15/05/1950, Quốc Hội Pháp thông qua đạo luật thành lập quân đội Việt Nam với 60.000 quân dưới tên gọi “Quân Đội Quốc Gia Việt Nam”. Dưới nét nhìn chính trị, đạo luật thể hiện chính sách thực dân Pháp sử dụng “người Việt không cộng sản cùng với Pháp đánh người Việt cộng sản” để họ giảm bớt máu xương! Tôi nghĩ, một quân đội ra đời trong bối cảnh như vậy không phải là tốt, nhưng là điều may vì nhờ đó mà Việt Nam chúng ta bắt đầu hình thành một quân đội chống lại cộng sản ngay sau khi thành lập. 
Ngày 01/05/1952, Quốc Trưởng bảo Đạo ký văn kiện thành lập Bộ Tổng Tham Mưu và cử Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hinh giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Đây là vị Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên của quân đội. 

Căn cứ quan trọng bậc nhất của quân Liên Hiệp Pháp tại Điện Biên Phủ với hơn 12.000 quân trú phòng, thất thủ ngày 7/5/1954 dẫn đến Hiệp Định Đình Chiến ký ngày 20/07/1954 tại thành phố Genève, Thụy Sĩ. Theo đó, vĩ tuyến 17 trở lên Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do cộng sản cai trị, vĩ tuyến 17 trở xuống Nam là nước Việt Nam theo chế độ tự do. Biểu thị vĩ tuyến 17 trên thực tế là sông Bến Hải với cầu Hiền Lương. Lúc ấy, Quốc Trưởng Việt Nam vẫn là cựu Hoàng Bảo Đại. Trước đó hai tuần, ngày 07/07/1954, ông Ngô Đình Diệm trình diện nội các với quốc dân đồng bào và ngoại giao đoàn. Cũng theo Hiệp Định Đình Chiến, quân đội và cán bộ cộng sản từ dưới vĩ tuyến 17 chuyển ra Bắc, quân đội Pháp và quân đội Việt Nam từ trên vĩ tuyến 17 chuyển vào Nam. Cùng lúc, gần một triệu đồng bào miền Bắc không chấp nhận chế độ cộng sản, đã bằng mọi cách với biết bao gian khổ và hiểm nguy thoát chạy vào Nam xây dựng cuộc sống mới. 

Việt Nam 1955-1975.

Kết quả cuộc “trưng cầu dân ý” ngày 23/10/1955, Quốc Trưởng Bảo Đại bị truất phế, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống từ ngày 26/10/1955. Quốc Hội Lập Hiến được bầu ra để soạn thảo Hiến Pháp. Sau khi ban hành Hiến…[Message Truncated] View full message.
From: OpLa 8 Oct 2018 10:49
To: OpLa 3 of 34
- hai -

Trước ngày vào trại tập trung.


******

Những ngày đầu tiên trong bước ngoặc của xã hội Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng, trong tình trạng hỗn loạn! Đường phố Sài Gòn vẫn ngổn ngang các loại quân trang quân dụng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Với hình ảnh tang thương bi đát đó, hầu như mọi người dân Sài Gòn đều có nỗi sợ hãi riêng theo cách nhìn cách nghĩ của mỗi người. 
Trên đường phố, từng toán thanh niên mặc đủ thứ áo quần, tay cầm súng AK47 của cộng sản hoặc M16 lấy của quân đội chúng ta, trên cánh tay họ có đeo băng đỏ, ngồi ngông nghênh trên những chiếc xe Jeep chạy khắp phố phường, thỉnh thoảng bắn từng viên từng tràng lên khoảng không, càng làm tăng thêm nỗi sợ hãi của mọi người, vì trong thời gian hỗn loạn này có luật pháp gì đâu. Trường hợp như con trai anh Trung Tá hành chánh quân y Giang Văn Trọng trong cư xá Bắc Hải, gần góc đường Lê Văn Duyệt với Tô Hiến Thành, thuộc Quận 10, bị một phát đạn chết tại chỗ. Anh Trọng, tôi với các bạn trợ giúp mang xác con anh về chôn.

Những người cộng sản sống trà trộn và hoạt động trong lòng Sài Gòn từ lúc nào đó mà danh từ quân sự gọi là “cộng sản nằm vùng”, cộng với những toán thanh niên nói trên mà lúc ấy người dân gọi là “cộng sản 30 tháng 4”. Có nghĩa là họ làm như họ là cộng sản từ rừng sâu hay từ đồng ruộng vào Sài Gòn vậy. Thật ra họ chỉ là những kẻ lợi dụng tình trạng hỗn loạn của xã hội, để hùa với bọn cộng sản nằm vùng lẫn cộng sản từ các cánh quân vào chiếm thủ đô, rồi tranh nhau vào những căn nhà trước đây cho người ngoại quốc mướn, những nhà mà gia đình đã di tản ra ngoại quốc, các cơ sở của chánh phủ, của quân đội, của ngoại giao đoàn, để tranh đoạt tài sản bên trong. Họ tự tay khuân vác, họ dùng cả xe để chở bất cứ thứ gì họ giành được. Những hồ sơ giấy tờ họ vứt đầy đường, vì những thứ đó không phải là những thứ mà họ cần tranh đoạt. 

Theo lệnh của “Ủy Ban Quân Quản”, cơ quan của cộng sản điều hành Sài Gòn-Gia Định lúc bấy giờ, cờ đỏ sao vàng và hình ông Hồ bày bán khắp đường phố. Trong tinh thần hoang mang sợ hãi, người dân Sài Gòn treo đủ thứ cờ, cờ cộng sản miền Bắc, cờ cộng sản miền Nam, người Việt gốc Hoa treo thêm cờ cộng sản Trung Hoa nữa. Người Việt gốc Hoa có lý khi làm như vậy vì Trung Hoa cộng sản là đàn anh của Việt Nam cộng sản mà. 
Sáng ngày 03/05/1975, vợ chồng tôi đi chợ An Đông, nghe được mẫu đối thoại giữa người mua tạm gọi là ông A (người miền Nam), và người bán tạm gọi là bà B (người miền Bắc), như thế này:

Ông A: “Tấm hình ông Hồ bao nhiêu vậy bà?”

Bà B: “Hai chục”. 

Ông A: “Mắc vậy. Miếng giấy nhỏ xíu có tấm hình lão già râu mà hai chục. Mười đồng được hông?”

Bà B: “Mười thì mười. Ông lấy đi. Tại thằng già này mà tôi bỏ làng bỏ xóm ngoài Bắc chạy vào đây, bây giờ gặp lại thằng chả. Chán mớ đời”. 

Hai ông bà này vừa liếc nhìn chung quanh, vừa mua vừa bán. 
Thôi thì tối ngày đài phát thanh ra rả điều mà họ gọi là “bách chiến bách thắng”, là “cả nước tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, là “chính sách khoan hồng nhân đạo” đối với quân nhân viên chức cán bộ của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cũ mà họ gọi là “ngụy quân ngụy quyền”. Trong khi họ ra rả những điều nói trên thì lác đác họ đã lùng bắt một số sĩ quan, như Đại Tá Hồ Văn Hiền thuộc ngành Quân Cụ ở đường Tô Hiến Thành (Quận 10, Sài Gòn), bị bắt vào khám Chí Hòa vì trong nhà có vài người bạn đến dùng cơm. Như Đại Tá Nguyễn Văn Phiên thuộc Bộ Quốc Phòng, trên đường từ Sài Gòn về Châu Đốc thăm nhà đã bị bắt giam tại Long Xuyên. Như Thiếu Uý Triệu Văn Lễ thuộc ngành Quân Nhu, bị bắt đưa vào giam tại Vĩnh Long…v..v..

Trong những tuần lễ kế tiếp, hằng trăm quân nhân viên chức -kể cả viên chức cấp Xã- đã bị những tổ chức địa phương gọi là “Ủy Ban Quân Quản” bắt đưa ra tòa án, mà hầu hết là bị những tên “răng đen mã tấu” xử tử hình. Những buổi nhóm họp mà cộng sản gọi là những phiên tòa, không giống bất cứ phiên tòa nào tại các quốc gia văn minh trên thế giới, vì chỗ nào ngồi được là mang bàn ghế đến đó ngồi xử án, và bất cứ tên cộng sản nào cũng có thể ngồi vào chiếc ghế chánh án mà không cần kiến thức tư pháp gì cả. Những phiên tòa của năm 1975 không có gì khác những phiên tòa thời “cải cách ruộng đất” những năm 50 trên đất Bắc. Tuy không có hình thức đấu tố, nhưng cách buộc tội dẫn đến bản án tử hình, về căn bản vẫn thế. Những phiên tòa diễn ra ở hai khoảng không gian cách nhau hằng ngàn dặm, với hai thời gian cách nhau trên dưới 20 năm, nhưng man rợ thì giống nhau. 

Những nạn nhân mà họ gọi là “tội nhân” không được quyền biện minh cho mình, cũng không ai được phép biện minh cho họ. Điển hình cho những nạn nhân nói trên là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện, một tỉnh lọt thỏm giữa ranh các tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ), Kiên Giang (Rạch Giá), Bạc Liêu, An Xuyên (Cà Mau), và Ba Xuyên (Sóc Trăng). Đại Tá Cẩn cùng lực lượng dưới quyền, đã chống trả quân cộng sản đến khi bị chúng bắt chớ không đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh. 

Chỉ đôi nét về cảnh tượng nói trên, cho phép chúng tôi nhận định hành động của quân cộng sản là hành động của kẻ cai trị tàn bạo, chẳng khác thời thực dân Pháp cai trị, nếu không nói là tệ hơn. “Tệ hơn” vì thực dân Pháp là kẻ ngoại xâm, trong khi quân cộng sản là kẻ nội xâm. Cả hai cùng là kẻ tàn bạo, nhưng cộng sản là kẻ tàn bạo kiểu man rợ rừng sâu trong khi thực dân Pháp là kẻ tàn bạo kiểu thị thành. Mới thoáng qua thời gian ngắn ngủi với một số trường hợp xảy ra, đã làm cho hằng triệu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ thường xuyên trong tình trạng sợ hãi. Không biết rồi đây cộng sản sẽ áp dụng biện pháp nào, nặng nhẹ ra sao, dù rằng hằng ngày trên làn sóng phát thanh trên màn ảnh phát hình của chúng tại Sài Gòn, cứ mang cái mảnh giấy “chính sách 10 điểm” mà chúng gọi là “chính sách khoan hồng nhân đạo” ra rao giảng.

Tôi nghĩ, câu nói đủ nghĩa nhất trong thời gian này là “nước mất nhà tan, người loạn lạc!”.
Thưa quí vị quí bạn, cư xá Bắc Hải, nơi có khoảng 750 gia đình sĩ quan cư trú mà hầu hết đều phục vụ tại các cơ quan đơn vị trong phạm vi Quân Trấn S…[Message Truncated] View full message.
From: OpLa 8 Oct 2018 10:51
To: OpLa 4 of 34
- ba -

Đường vào trại tập trung.
 


******
Thưa quí vị quí bạn, thỉnh thoảng vợ tôi chọc quê: 

“Nghĩ mà tức cười, bỗng dưng anh với bè bạn thất nghiệp hết trơn. Đã vậy mà có anh bị bắt vào tù nữa chớ!”

Nói là tức cười chớ thật ra vợ tôi rất lo nhưng tìm cách an ủi tôi, mà vợ tôi cũng tự an ủi nữa. Con nhỏ giúp việc nhà cho chúng tôi nhiều năm qua, đã về quê ở Cái Tàu Hạ (Sa Đéc). Lý do mà con bé (20 tuổi) nói với vợ tôi rằng: 

“Cô ơi! Giải phóng vô rồi, mọi người đều làm chủ nên không ai đi làm hết.”

Hẳn quí vị quí bạn cũng đồng ý cái lối tuyên truyền lừa dối của cộng sản như vậy dễ lừa người dân ít hiểu biết, nên chúng đã thành công bước đầu khi chiếm được Việt Nam Cộng Hòa. Từ điểm này mà suy ngẫm, trong thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh 1945-1954, với chính sách lừa dối đó, họ đã thu hút đông đảo thanh thiếu niên và cả trí thức tham gia hàng ngũ của chúng cũng phải thôi. Không thể trách thành phần không cộng sản đã tham gia vào tổ chức Việt Minh, võ bọc của đảng cộng sản lúc ấy. Vì hơn nửa thế kỷ bị thực dân Pháp cai trị, bấy giờ người Việt Nam đứng lên chiến đấu chống thực dân Pháp nên mọi thành phần trong xã hội dễ dàng chấp nhận những gì mà tổ chức đó tuyên truyền.
Những ngày đầu tháng 06/1975, một thông cáo của Ủy ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định, ra lệnh cho tất cả sĩ quan, viên chức, cán bộ, và đảng phái chính trị trong chế độ cũ, phải trình diện trong các ngày 13, 14, và 15 tháng 6 (1975) mà họ gọi là “học tập cải tạo”. Thông cáo cũng cho biết các địa điểm trình diện dành cho các thành phần khác nhau. Mỗi người phải mang theo quần áo kể cả áo ấm, mùng mền, và tiền đủ cho 30 ngày ăn do nhà hàng Đồng Khánh cung cấp. Cấp Tướng và cấp Đại Tá trình diện tại khu đại học xá Minh Mạng ở ngã sáu Chợ Lớn.
Xem xong thông cáo, anh em chúng tôi trong cư xá bàn tán nhau rất ư là linh tinh, để rồi tựu trung mọi người đều thở phào nhẹ nhỏm, vì theo cách hiểu chân phương của chúng tôi, những người chưa thấu hiểu sự gian trá trong cái ngôn ngữ “học tập cải tạo” của cộng sản, nên chấp nhận mình đi học tập chớ không bị tù đày, lại ăn cơm do nhà Đồng Khánh cung cấp nữa chớ. Thế là trút hết nỗi lo ra phía sau để chuẩn bị đi về phía trước, mà thật ra chẳng một ai trong số chúng tôi hình dung được phía trước là cái gì ngoài cái thời hạn 30 ngày gọi là “học tập cải tạo”. 
Tôi đem cái võng nylon màu xanh ô liu ra cắt may, chầm qua đấp lại cũng thành cái túi đeo lưng. Chẳng hiểu sao lúc ấy tôi có ý nghĩ “nếu có di chuyển đi đâu thì tốt hơn là mọi thứ cho vào túi đeo lưng để di chuyển được gọn gàng giống như đi hành quân vậy”. Tôi sử dụng một nửa cái võng quân đội, một nửa còn lại tặng anh cựu Đại Tá Nguyễn Thành Chí và chị Chí cũng may cho ảnh cái túi đeo lưng.
Như những ngày trước đó, cựu Đại Tá Đặng Đình Đán đến chơi. Chúng tôi vẫn ngồi trên xích đu trong góc sân. Anh hỏi:

“Nè. Bác có đọc thông cáo của Ủy Ban Quân Quản chưa?”

“Đã xem rồi. Mà anh thấy gì trong nội dung đó?”

“Phải bác muốn nói đến thời gian 30 ngày không?”

“Đúng. Nhưng nếu 30 ngày sao họ bảo bọn mình đem theo áo ấm? Phải chăng địa điểm học tập ở vùng lạnh?” 

Anh Đán có vẻ kinh nghiệm và tin tưởng: 

“Theo kinh nghiệm của tôi thì thời gian đó hợp lý. Có thể bọn mình sẽ trải qua 4 tuần lễ như thế này: 2 tuần học tập, 1 tuần kiểm thảo, tuần còn lại là chuẩn bị và làm lễ chấm dứt. Cách của họ bao giờ cũng vậy. Bác yên chí đi.”

“Anh còn có kinh nghiệm của họ chớ tôi có vốn liếng kinh nghiệm gì đâu. Cứ mong là diễn tiến như anh nghĩ.”

“Đừng có bi quan. Tôi trông bác thọ lắm. Hai trái tai của bác đầy đặn và rất dài. Tốt tướng lắm.”

“Bi quan thì không, nhưng lạc quan thì chưa có anh ơi! Dù sao thì bọn mình cũng ưu tư là sau 30 ngày đó sẽ làm gì? Và liệu còn chuyện gì xảy ra cho chúng mình nữa không?”

“Tôi chắc là họ sẽ sử dụng chúng mình để xây dựng đất nước thôi bác à!” 

Anh Đặng Đình Đán có vẻ tự tin lắm. 

Ngay tối hôm đó có hai người mặc thường phục gõ cửa nhà tôi. 

“Xin hỏi hai anh là ai?” Tôi hỏi.

Họ chẳng tự giới thiệu, chỉ cười cười và cứ như bè bạn từ lúc nào ấy, tự nhiên vào nhà. Tôi lặp lại: 

“Xin lỗi, hai anh là ai? Đến đây có chuyện gì?” 

Tuy hỏi nhưng tôi nghĩ họ là cộng sản, chớ không người miền Nam nào lại chẳng biết lịch sự tối thiểu khi đến nhà người chưa quen. Nghĩ vậy nên tôi đành phải mời chúng nó ngồi. Ngồi xong. Một trong hai đứa hỏi tôi toàn những chuyện linh tinh, nhưng tôi càng đề phòng vì nghĩ rằng chúng nó dẫn chuyện vòng vo để bất chợt vào chuyện làm cho mình bất ngờ cũng nên. Và rồi một tên ra cái vẻ nghiêm chỉnh:

“Anh có biết là anh học tập ở đâu không?”

“Không”. Tôi trả lời.

“Ở quanh đây thôi. Có thể là Hóc Môn hay vùng lân cận.”

“Nếu ở vùng đó thì có Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, nhưng sao bảo chúng tôi mang theo áo ấm?”

“Có thể lắm. Áo ấm là phòng khi các anh bị ốm thôi. Các anh nên an tâm và tin tưởng vào cách mạng. Cách mạng đã nói là làm.”

Đến trước khi tiễn chúng nó ra cửa, chúng nó mới tự giới thiệu, một tên là cán bộ chính trị và tên kia là nhân viên của Phường. Tôi cảm thấy thắc mắc: “Tại sao họ tung người đến từng nhà trấn an người thua trận? Bởi vì từ khi có cái thông cáo gọi trình diện đã có điều gì xảy ra làm cho họ sợ đâu?”
Tại Sài Gòn đã có một vài bạn cùng nhiệm sở với tôi đã bị bắt, nhưng có tính cách lẻ tẻ. Trong khi tại các tỉnh vùng đồng bằng Cửu Long, theo những tin loan truyền từ bên ngoài vào cư xá, đã có nhiều sĩ quan bị bắt ngay khi chúng tràn vào thị trấn, tỉnh lỵ. Trường hợp điển hình là các bạn tôi ở Long Xuyên như anh chị Lê Hồng Danh, anh chị Nguyễn Ngọc Chươu, …. chúng không cho mang bất cứ vật dụng gì ra khỏi nhà, chỉ mỗi bộ quần áo trên người khi bị đẩy ra khỏi cửa mà không một lời giải thích. Một bức thư viết vội của chị Nguyễn Ngọc Điệp chuyển vào cho tôi biết, anh Điệp -Đại Tá, Tỉnh Trưởng Bạc Liêu sau khi bàn giao xong -thật là mỉa mai- cho một tên cộng sản, anh Điệp mời hắn…[Message Truncated] View full message.
From: BUFFALO (DAUCULA) 8 Oct 2018 11:25
To: OpLa 5 of 34
 (thanks)  (thanks) Nhưng buồn quá
From: OpLa 8 Oct 2018 13:42
To: OpLa 6 of 34
- bốn-

Trại tập trung Long Giao


*****
Sài Gòn đến Long Giao.

Cuối cùng đoàn xe Molotova già nua cũng lăn bánh. Lúc ấy là giờ đầu tiên của ngày 16/06/1975. Tôi phải ghi rõ như vậy, vì tôi muốn lưu vào ký ức tất cả những sự kiện cũng như những thời điểm diễn tiến trong cuộc sống trước mắt của “những người thua trận,” để có thể tìm hiểu bản chất cộng sản Việt Nam như thế nào. 
Cho dù có bí mật cách mấy đi nữa họ cũng hiểu rằng thời hạn ấn định phải trình diện trong các ngày 13, 14, và 15 tháng 6 năm 1975, mà ngày đầu tiên họ bảo phải mang theo thức ăn, như vậy người trình diện ngày 14 chỉ ăn có 1 ngày, người trình diện ngày 15 thì chẳng ăn bữa nào hết. Khi di chuyển thì tất cả cùng đi một lượt, mà tiền ăn vẫn phải đóng y chang nhau. Chỉ với sự kiện nho nhỏ của vài ngày đầu tiên “học tập cải tạo” đã là không đúng với bản thông cáo rồi. Phải chăng đây là hành động gian trá cướp đoạt dù trị giá chưa bao nhiêu? Cướp nhà cướp của, nói chung là cướp tài sản ngay sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa nói chung và thủ đô Sài Gòn nói riêng, bây giờ đến cái nhỏ nhoi chỉ mấy đồng tiền ăn cũng gian trá để ăn cướp! 

Đoàn xe lớn bé khoảng 15 chiếc, từ từ ra cổng đại học xá, quẹo trái theo đường Minh Mạng đến Ngã Bảy. Rồi quẹo phải sang đường Lý Thái Tổ. Đến Công Trường Cộng Hòa quẹo trái sang đường Hồng Thập Tự. Lại quẹo phải sang đường Công Lý, khi đến đại lộ Thống Nhất quẹo trái. Đến sát Thảo Cầm Viên, quẹo trái sang đường Cường Để. Đến đường Phan Thanh Giản, quẹo phải thẳng ra xa lộ Biên Hòa. Chẳng hiểu sao họ lại chạy quanh co vòng vèo như vậy, vì muốn ra xa lộ cứ đường Minh Mạng đến Ngã Bảy, vẫn con đường đó trở thành đường Phan Thanh Giản, và ra xa lộ. Đơn giản quá. 
Đó là cách nghĩ của tôi, nhưng có thể quân cộng sản muốn đánh lạc hướng với “đoàn người trong những cái hộp đen” không biết họ chở đi đâu chăng? Thật sự thì “đoàn người đó” quá quen thuộc mọi hang cùng ngõ hẻm của thủ đô Sài Gòn thì sá gì cái mẹo vặt ấy che mắt được. Hoặc vì từ trong rừng mới vào thủ đô Sài Gòn nên chưa thạo đường đi chăng? Điều này nghe không ổn, vì cho dù đoàn quân từ rừng rú vào Sài Gòn nhưng còn thành phần cộng sản nằm vùng dẫn đường chớ. Tôi nói đoàn quân cộng sản từ rừng rú vào thủ đô Sài Gòn, là bao gồm cả thành phần đảng viên cán bộ cộng sản từ Hà Nội nữa, bởi sinh hoạt ở thủ đô Hà Nội của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng không khác bao nhiêu với sinh hoạt của họ trong rừng rú.

Với vài mẫu chuyện về tiện nghi sinh hoạt thông thường của người Việt Nam Cộng Hòa, mà người cộng sản từ người lính trong quân đội cho đến người bác sĩ trong xã hội chủ nghĩa 20 năm trên đất Bắc, thật sự là họ quê mùa không thể tưởng tượng được. Nói cho đúng là họ quá lạc hậu. Do vậy mà tôi nhận xét về cái câu “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, mà họ nhai đi nhai lại không mệt mỏi không ngượng ngùng trên các phương tiện truyền thông của họ, nên hiểu như thế này: “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc xuống đáy của chủ nghĩa phong kiến” mới đúng. Thật sự xã hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sau 20 năm (từ năm 1955) là tiến xuống chớ không phải tiến lên theo cách nhìn của tôi, và tôi nghĩ cũng là nét nhìn của người Việt Nam Cộng Hòa chúng ta nữa. 

Phong kiến là một chủ nghĩa mà người đứng đầu quốc gia được xem là Vua mà Trung Hoa gọi là Con Trời với quyền lực tuyệt đối, muốn giết bất cứ thần dân nào thì giết, thậm chí đến các quan trong triều cũng vậy. Dưới chế độ phong kiến, người dân chỉ biết vâng lời vua. Dưới triều đại cộng sản, nhóm lãnh đạo cộng sản nắm quyền cai trị, chẳng những rập khuôn các triều đại vua quan phong kiến mà còn lồng trong những thủ đoạn gian trá tinh vi hơn nhiều, bao gồm gian trá tinh vi trong những cách giết người dưới quyền cai trị của họ, như Liên Bang Sô Viết đã giết hằng 70 triệu dân của họ, Trung Hoa cộng sản đã giết hằng 50 triệu dân, các quốc gia Đông Âu dưới chế độ cộng sản cũng thế, và nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng tàn bạo như vậy. Ít nhất trong 20 năm xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc, cộng sản đã giết nhiều trăm ngàn dân bằng những cách thật là man rợ, khi bị họ ghép vào thành phần “trí, phú, địa, hào” từ đầu năm 1954 đến tháng 9 năm 1956! Họ đã tiêu diệt hàng ngũ nhà văn nhà báo trong vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” hồi năm 1957 theo chính sách “trăm hoa đua nở” của Trung Hoa cộng sản! Và họ đã thiêu đốt hằng chục triệu thanh niên vào cuộc chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa! Trong trận chiến Tết Mậu Thân đầu năm 1968, cái đám cháu ngoan của ông Hồ đã giết hằng mấy ngàn người tại Huế một cách dã man kể cả chôn trong những ngôi mộ tập thể! 

Đoàn xe lầm lủi một cách chậm chạp. Chốc chốc chúng tôi luân phiên nhau len lén hé một khoảng nhỏ tấm bạt phía trước để quan sát những nơi đi qua. Mờ sáng, qua khỏi Biên Hòa và đang trên quốc lộ số 1 về phía bắc. Đoàn xe dừng lại Xuân Lộc một lúc chắc là chờ cả đoàn tập trung đầy đủ chăng? Tôi dùng lưỡi lam rạch một lằn ngắn trên tấm bạt phía bên hông, trông thấy nhiều người dân cố gắng áp sát xe nhưng bị lính cộng sản chận lại. Rất có thể người dân nghi ngờ xe chở quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ đem đi đâu đó nên họ tìm cách đến sát hông xe để xem, nhưng không được. 


Khoảng 7 giờ 30 phút sáng, đoàn xe chở gần 300 Đại Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thua trận, từ từ vào một doanh trại. Xe ngừng hẳn. Hai lính cộng sản mà họ gọi là “bộ đội” cầm súng nhảy xuống, hạ tấm bửng và lớn giọng: 

“Các anh mang tư trang xuống xe. Không một ai được quan sát địa hình.” 

Chữ nghĩa của cộng sản sử dụng không cùng chữ nghĩa mà người tự do chúng ta sử dụng. Câu vừa rồi có nghĩa là các anh mang đồ đạc xuống xe và không một ai được tìm hiểu nơi đây là đâu.
Nhìn cổng trại, tôi nhận ra nơi đây là doanh trại cũ của Trung Đoàn 48 Bộ Binh mà có lần tôi tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Là đến thăm. Lúc ấy Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá Trần Bá Thành. Bây giờ anh Thành cũng đang trong đoàn xe này. Doanh trại này trước kia do một Trung Đoàn Kỵ Binh Hoa Kỳ trú đóng, là một trong những căn cứ tạo thành vòng…[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 18:16 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 13:44
To: OpLa 7 of 34
Sau tuần lễ gởi thư đi, chúng tôi nhận được thư nhà. Tuy nội dung thư viết theo bắt buộc, nhưng cũng có một số bạn nhờ “méo mó chữ nghĩa” nên thân nhân cũng đoán được chỗ ở. Đây là đoạn thư méo mó đó: “… Trước khi đi học tập, vì buồn quá nên Anh đi đánh bài. Thua và thiếu nợ chút ít. Cũng may có tía thằng Long, Ông Nội thằng Long là anh Giao già lọm khọm đó, hai người cho Anh mượn trả cho chủ sòng bài. Nếu Em có tiền, ráng mang trả hai ảnh giùm Anh 100 đồng nghe Em. Anh hứa khi học tập về sẽ không bao giờ đánh bài nữa …” 
Thế là cấp Đại Tá “học tập” ở Long Giao được loan truyền từ gia đình này sang gia đình khác trong vùng Sài Gòn Gia Định. Vài tuần sau đó, anh Nguyễn Văn Đương (Đại Tá Biệt Động Quân) được vợ đến thăm nhưng không được gặp, mà cộng sản bằng lòng nhận giỏ thức ăn đưa vào trại cho anh Đương. 
Được thư vợ tôi. Nhìn dòng chữ thân thương trên bao thư, tôi xúc động vô cùng! Tôi biết là vợ tôi và các con chúng tôi mong tin lắm. Thông thường chỉ một ngày vắng nhau về tin tức đã đủ tạo nên không khí lo âu trong gia đình, huống hồ từ hôm tôi rời nhà đến nay đã hơn 3 tháng rồi! Thời gian đó đối với cuộc sống chẳng có nghĩa gì hết, nhưng với vợ chồng tôi trong tình cảnh này quả là nỗi lo nặng trỉu biết bao! Cũng vì sợ cách biệt nhau mà vợ tôi đã khước từ di tản trong đêm 24 tháng 4 năm 1975, sẳn sàng chấp nhận hiểm nguy miễn được sống bên nhau. Do đó, tôi mới xoay sang giải pháp đi Australia ngang qua Singapore ngay sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố trung lập. Vậy mà…, chúng tôi vẫn xa nhau trong mịt mù tin tức! 

Xem xong thư, tất cả anh em chúng tôi hiểu ngay rằng, các bà vợ chúng tôi cũng phải “học tập” cách viết thư cho những ông chồng trong trại tập trung, vì nội dung thư chúng tôi gởi về với thư nhận được từ gia đình, y chang nhau. Xã hội xã hội chủ nghĩa có vẻ như “một cái nhà tù lớn” và mọi người từ trong cái nhà tù lớn đó bị buộc phải suy nghĩ và hành động y chang theo lời dạy của cộng sản vậy đó!
Cơm trưa hôm ấy, trong khi trao đổi những mẫu chuyện ngăn ngắn xoay quanh đợt thư đầu tiên, những tiếng nói vội vã từ ngoài cửa:
“Có tin vui. Có tin vui.”
“Tin gì mà vui?” 
“Anh C Trưởng hội ý bất thường -tức nhận lệnh của Trại- về đến, anh ấy đang gọi các anh B Trưởng họp gấp. Chốc lát sẽ rõ. Đừng hỏi nữa được không?”
Mỗi lần có bất cứ tin tức gì miễn là cứ ởm ờ làm cho mọi người xôn xao, thì mạnh ai người ấy tự hỏi hoặc nêu câu hỏi bâng quơ, cho nên không thể nào nhớ nỗi ai hỏi câu gì mặc dù nhiều người hỏi nhưng chẳng ai trả lời. 
Một lúc sau, anh B Trưởng về đến căn trại mà không cần gọi tập họp gì cả, vì mọi người trong B bao quanh anh rồi. Anh Phụng vẫn từ tốn như thuở nào:
“Lệnh cho anh em mình chuẩn bị “cơ động”. Lát nữa có Trại Trưởng xuống nói chuyện với anh em mình.”
Thế là quá đủ để mọi người nhao nhao lên với những âm thanh rất ư là lộn xộn. Có tiếng anh Bùi Quang Định càu nhàu:
“Lại cơ động! Một lần cơ động lấy củi gần ẹo xương sống rồi, bây giờ cơ động gì nữa đây mấy cha?”
Anh Phụng kéo tôi ra bên ngoài:
“Anh Phước cho biết là mình chuẩn bị “go home”. Anh phải giữ kín nghe chưa vì anh em đồn ầm lên là phiền lắm.”
“Mong là vậy.” Tôi đáp, nhưng vẫn có chút e dè ..
Toàn bộ khu C2 cấp Đại Tá tập họp nghe Trại Trưởng -Đại Úy Xê- thuộc Đoàn 263 đến. Anh ta nói đại ý rằng:
“Các anh sẽ cơ động ngay tối nay đến một trại khác có tiện nghi hơn, vì về lâu về dài thì trại này không đủ điều kiện sinh hoạt cho các anh. Chúc các anh có sức khỏe để học tập tốt mà sớm về với gia đình.” 
Thôi thì mọi người vừa thu dọn vừa mạnh ai người ấy nói, nói cho mình và nói cho cả những anh im lặng suy nghĩ. Một số câu nói kiểu ấy tôi ghi lại sau đây: “Chắc chắn là tụi mình về rồi.”
“Nếu về, sao họ nói là trại kia có tiện nghi hơn?”
“Thì họ sợ mình xôn xao nên họ nói vậy chớ có gì đâu.”
“Chính họ nói vậy mới làm mình xôn xao đó mấy anh ơi!”
“Việt cộng nói hơi nào mà nghe. Ba chục ngày mà bây giờ mấy lần ba chục rồi, vậy mà các cha cứ nghe chúng nó hoài, có mà chết đó.” 
“Nó còn nhốt mình dài dài cho coi. Tôi “đếch” tin tụi nó nữa.”
“Thôi các bạn ơi! Mệt lắm! Chắng ai xác nhận lời nào đúng lời nào sai. Cứ mặc kệ, tới đâu thì tới!”
“Nói vậy thì còn gì nói nữa. Chuyện có ảnh hưởng đến mình thì mình phải nói phải bàn, may ra có câu trả lời hợp lý chớ. Mà nói cho cùng, bàn chuyện với nhau dù trúng hay không trúng cũng góp phần nâng đỡ tinh thần anh em chớ bạn.” 
“Nghĩ gì thì nghĩ, nói gì thì nói, nhưng đừng cãi cọ nhau chẳng đẹp đẽ gì đâu.”
“Ai cãi ai mà ông nói?”
“Không cãi thì thôi”.
“Thực tế chút đi các bạn ơi! Thu dọn mọi thứ cần thiết để có mà dùng nếu như cái số của tụi mình vẫn long đong!”
“Cha nào nói nghe xui xẻo không hà!”
Đại loại những câu chuyện râm ran như vậy, tuy có vẻ bâng quơ nhưng tự nó đã biểu lộ tâm trạng của những người vừa hụt hẫng với thời gian 30 ngày nêu trong cái thông cáo của “Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn - Gia Định”.
Một đêm hạ tuần tháng 10 năm 1975, hoàng hôn phủ xuống, đoàn xe Molotova già nua cũ kỹ từ từ vào cổng trại. Anh em chúng tôi dưới sự hướng dẫn lẫn thúc giục của quân cộng sản, lần lượt lên xe với mớ hành trang lỉnh kỉnh. Lên xong, chung quanh bị phủ kín như lần “cơ động” từ đại học xá Minh Mạng Sài Gòn đến Long Giao này vậy. Khoảng 8 giờ đêm, đoàn xe chầm chậm ra cổng. Vào quốc lộ 1, hướng về Sài Gòn. Sự kiện nhỏ nhoi này làm tăng thêm niềm hi vọng “go home” của anh em chúng tôi. Nhưng …. …

*****
EDITED: 8 Oct 2018 18:18 by OPLA
From: AndyLe (HOASIMTIM.) 8 Oct 2018 13:51
To: OpLa 8 of 34
có 10 chương lận đó
bỏ cái link dô là xong
pdf http://www.vietnamvanhien.org/kysutrongtu.pdf
ông đại tá Hoa, sao nghe nói bên này vẫn có nhiều người ghét, thật khó hiểu 
From: Cssr 8 Oct 2018 15:32
To: AndyLe (HOASIMTIM.) 9 of 34
Cảm ơn em.  Anh đã đọc quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ của ông, bây giờ đọc thêm ký sự này nữa.  Tạm bỏ qua các quan điểm chính trị (và anh cũng không biết quan điểm của bác này), nhưng đọc để biết những diến biến vào giai đoạn đen tối nhất của miền Nam VN.  Nhiều vị cao niên có trí nhớ quá tuyệt vời!
From: AndyLe (HOASIMTIM.) 8 Oct 2018 15:40
To: Cssr 10 of 34
vâng anh

em không quan tâm lắm quan điểm chính trị của tác giả

miễn sao họ chịu khó viết cho mình đọc, và mình cảm thấy họ viết có phần khả tín, đọc để biết thêm là ok rồi, đọc có chọn lọc. Dù rằng em chưa đọc hết các bài của đại tá Phạm Bá Hoa.

Người cao tuổi, chuyện hàng ngày họ có thể quên trước quên sau, chứ chuyện xa tít mù xa xưa họ nhớ đến từng chi tiết nhỏ, đôi khi hứng lên, họ thêm chút mắm muối vô cũng thú vị lắm. 
 
From: Cssr 8 Oct 2018 15:48
To: AndyLe (HOASIMTIM.) 11 of 34
Kệ đi em, chút mắm muối cho thêm phần đậm đà.
From: OpLa 8 Oct 2018 16:27
To: AndyLe (HOASIMTIM.) 12 of 34
Gắn thẳng trong này đọc từ từ, nhiều hãng không cho download attachment hay block một số sites.
From: OpLa 8 Oct 2018 16:35
To: OpLa 13 of 34
- năm -

Trại tập trung Tam Hiệp. 



******
Tổ chức và sinh hoạt.

Ba tiếng đồng hồ sau đó, niềm hi vọng của chúng tôi tắt lịm khi đoàn xe bít bùng vào cổng trại Tam Hiệp, tỉnh Biên Hòa. Trại này nguyên là “trại tù binh cộng sản” nên không xa lạ với những bạn có thời gian phục vụ ở Biên Hòa và vùng lân cận.
Sân trại dưới ánh sáng vàng vọt của những bóng đèn gắn tạm, cho thấy hai cái bàn với mấy cái ghế, và một toán cộng sản đi qua đi lại chỉ chỗ cho xe đậu. Tắt máy. Tại mỗi chiếc hầu như có tiếng thúc giục xuống xe và đứng tại chỗ. Từ giữa sân, một giọng ồm ồm:
“Các anh tập trung trước cái bàn dài này để nghe biên chế. Khẩn trương lên”. 
Những ngày đầu ở trại Long Giao, anh em chúng tôi chẳng ai hiểu nghĩa của chữ “khẩn trương” nên đôi lần bị họ mắng. Dần dần mới hiểu được, hóa ra chữ khẩn trương có nghĩa như chữ nhanh lên hay lẹ lên của người dân Việt Nam Cộng Hòa vậy. Còn chữ “biên chế” có nghĩa như chữ tổ chức của mình. Bởi vì chữ của cộng sản sử dụng không cùng nghĩa với chữ thông dụng trong văn hoá Việt Nam, đã biết vậy cho nên chẳng phải thắc mắc làm chi cho mệt trí.

Chỗ ở. 
Họ đọc danh sách biên chế vào từng “Khối”. Tất cả cấp Đại Tá vào 4 Khối, con số diễn biến từ 92 đến 94 người trong mỗi Khối, và mỗi Khối ở trong hai dãy nhà. Tôi ở trong Khối 2, dọn vào dãy số 3 và 4. Đồ đạc lỉnh kỉnh tạm thời để ngổn ngang, miễn có chỗ nằm ngủ rồi sáng mai dọn dẹp. Lúc ấy là hơn 1 giờ sáng. 
Toàn bộ trại này là loại nhà sườn sắt, lợp tôn, nền tráng xi-măng, vách cũng bằng tôn cách mặt đất khoảng 3 tấc (0.3 mét) cho gió lùa đỡ nóng. Vách nhà này với vách nhà kia cách nhau khoảng 5 thước, giữa đầu hồi của hai dãy cũng một khoảng cách tương tự. Chung quanh mỗi dãy đều có mương thoát nước rất rộng, và khá sâu nhưng khô queo. Khu vực này toàn đất cát nên trời mưa vẫn sạch. 
Cầu tiêu là cái mương dài đủ cho khoảng 20 người ngồi cùng lúc. Cầu tiêu không mái che, cũng không có vách bao bọc chung quanh, chỉ có mấy tấm ván mảnh mai bắt ngang cái mương đủ để ngồi làm cái việc “sản xuất phân bón”, nên khi có lượn gió hây hây đủ làm mát rượi khắp người! Khi “phân bón xã hội chủ nghĩa ưu việt” được thải ra từ những con người không phải công dân xã hội chủ nghĩa đến mức đầy cái mương cầu tiêu, thì trời đất ơi, ruồi nhặng xanh lè, con nào con nấy bằng ngón tay út vì chúng nó ăn thả giàn. No bụng là bay nhỡn nhơ khắp các dãy nhà, và đậu vào bất cứ chỗ nào nó muốn. Khốn nỗi cái mương cầu tiêu đầy ắp phân bón xã hội chủ nghĩa chỉ cách dãy nhà số 3 -nơi tôi ở- khoảng 15 thước, chỉ cần chút gió thoảng là cái “mùi xã hội chủ nghĩa ưu việt” đến kinh tởm đó tràn vào nhà này và những nhà kế cận. 
Những ngày đầu, anh em chúng tôi tưởng chừng không thể sống nỗi với cái không khí khiếp đảm này, nhưng rồi cũng phải quen để mà sống. Chẳng những không thể trốn cái mùi ấy, mà nhiều bạn phải ra ngồi dưới bóng mát của cây trứng cá nhỏ nhoi ở khoảng cách giữa dãy nhà số 3 với cái mương cầu tiêu, để tránh “cái nóng nung người nóng nóng ghê” của vách nhà và mái nhà lợp tôn. Cũng có bạn chấp nhận cái nóng gay gắt để được nằm trong nhà vì lúc ấy mới nằm thong thả được, bởi chỗ nằm của mỗi người được phân chia một cõi không gian bé tí vỏn vẹn 6 tấc (0.6 thước) bề ngang. 
Nấu ăn. Một gian nhà bếp có 6 miệng lò cở chảo đụn (loại chảo có sức chứa 60 lít nước) dành cho 4 Khối nấu ăn. Mỗi Khối tổ chức thành 6 Tổ nhà bếp để tự lo cho Khối mình. Nhà thầu cung cấp cây cao su già nguyên khúc, và rau với cá tươi. Toàn là “cá ngừ”, một loại cá biển có giá trị thấp nhất trong các họ nhà cá. Tôi phụ trách một Tổ trong 6 Tổ nấu bếp của Khối 2. 

Tổ chức nhóm. 
Mỗi Tổ chia ra như sau: Nhóm nấu bếp thì tôi nấu cơm. Anh Nguyễn Ngọc Điệp (Đại Tá bộ binh) chụm củi. Anh Trần Phước Dũ (Đại Tá Hải Quân) nấu thức ăn. Nhóm làm rau gồm 6 anh mà hầu hết là Bác Sĩ Quân Y. Nhóm sau cùng là chẻ củi cao su và cung cấp nước. Ở trại này, nước dùng thong thả chớ không khốn đốn như ở trại Long Giao. 

Phân công. 
(1) Nhóm nấu bếp. Từ mờ sáng, anh em chúng tôi xuống bếp nhóm lửa nấu hai chảo nước sôi (120 lít nước). Khiêng lên hai dãy nhà số 3 và 4 để các bạn có nước chín sử dụng trong ngày. Sáng sớm có nước sôi pha trà, pha cà phê, thậm chí ăn mì gói nữa. 
(2) Nhóm làm rau. Ra ngoài cổng lãnh gạo, rau, và cá ngừ ở Ban Chỉ Huy trại. Nói là ra ngoài cổng chớ thật sự chỉ cách ba lớp hàng rào kẽm gai liền nhau thôi. Sau khi giao cá cho tôi, nhóm này rửa rau xắc rau nếu cần. Rau, thường là trái su le hay bắp cải. Làm xong rau thì giao cho anh Dũ. 
(3) Nhóm chẻ củi. Củi thì chẻ lúc nào cũng được. Lúc làm bếp thì lo cung cấp nước theo nhu cầu của Nhóm Làm Rau và Nhóm Nấu Bếp. Công việc đơn giản so với hai Nhóm kia.
Diễn tiến. Trong khi tôi làm cá mà thông thường là 5 hay 6 con cá ngừ lớn bằng cổ chân, anh Dũ cho 60 lít nước vào chảo chuẩn bị nấu canh. Thường khi tôi làm cá xong, cũng là lúc anh Điệp đâm xong tô muối trộn với một bó hành lá xắc nhỏ và khoảng 100 trái ớt (do chúng tôi trồng) để tôi ướp cá. Phải dùng nhiều hành nhiều ớt để giảm bớt mùi tanh của cá ngừ. Ướp xong để đó, cho rau vào chảo nước đang sôi, cùng lúc cho vào tô muối hột với 100 gram bột ngọt. Thế là chúng tôi có chảo canh, múc ra hai cái chậu thau lớn để sang một bên. Xong món canh, rửa chảo và cho nước vào chảo chuẩn bị nấu cơm. Cứ một thùng gạo là một thùng rưỡi nước, theo tỷ lệ đó mà lường gạo với nước. Trước khi cho gạo vào, tôi nhắc: 
“Cho lửa tối đa nghe anh Điệp”. 

Khi cơm sôi: “Anh Điệp ơi! Bớt lửa 50%”
Lúc ấy anh Điệp kéo lửa ra, anh Dũ dùng lửa đó kho cá. Khi chảo cơm đủ hơi, anh Điệp kéo hết lửa ra ngoài và cứ thế mà chờ cơm chín, cá chín. 

Chia thức ăn. Cơm chia ra hai phần, cá cũng vậy, và toán trực của Khối xuống bếp khiêng về phân chia cho 92 (hay 94) khẩu phần. Chia cơm, canh, cá kho, cũng là vấn đề đôi khi rắc rối chớ hổng phải đơn giản đâu, vì lẽ lúc nào cũng không đủ ăn, nên lỡ tay chia không đều là bị bạn bè phản đối lia lịa! Mỗi người có một dụng cụ đựng cơm, một dụng cụ đựng canh, và một dụng cụ đựng thức ăn mặn. Dụng cụ mà tôi nói ở …[Message Truncated] View full message.
From: OpLa 8 Oct 2018 16:38
To: OpLa 14 of 34
Bị thẩm vấn tại trại Tam Hiêp.
Từ giữa tháng 04/1976, một số các bạn Đại Tá từng phục vụ tại các cơ quan trung ương bị họ gọi đến văn phòng làm việc. Tôi là một trong số đó. Họ dùng chữ “làm việc” nhưng theo tôi thì họ “thẩm vấn”. Hồi tháng 05/1975, khi còn ở Sài Gòn tôi đã bị “làm việc” hai lần. Nhưng theo cách vừa đe vừa vuốt trong từng câu hỏi, thật sự là cuộc thẩm vấn chớ không phải “làm việc” theo cách hiểu rõ nghĩa trắng đen của mình. Họ gọi không liên tục, có khi hai ba ngày liên tiếp, có khi cách vài ngày gọi một lần. Tôi tường thuật một số lần điển hình điều mà họ gọi là làm việc trong khi tôi vẫn khẳng định là bị thẩm vấn. 
Ngày đầu tiên bước vào gian phòng nhỏ hẹp ngay bên ngoài vòng rào kẽm gai, hai tên mặc quân phục thẳng thớm nhưng không mũ mão lon lá gì hết nên chẳng biết họ cấp bậc gì. Một tên có vẻ là trưởng đoàn hỏi tôi:
“Chào anh. Anh có phải là Phạm Bá Hoa không?”
“Đúng. Tôi là Phạm Bá Hoa.”
“Hôm nay chúng tôi bắt đầu làm việc với anh về một số vấn đề.”
“Đây là lần thứ 3 sau ngày 30/4/1975, các anh thẩm vấn tôi. Và tôi sẳn sàng về những điều tôi biết”.
“Có gì đâu mà anh cho là thẩm vấn, chỉ trao đổi với nhau thôi mà.”
“Tôi sẽ cố gắng để hiểu như vậy.”
“Ở căn cứ Long Bình của mấy anh có mấy hầm bí mật? Chính xác là chỗ nào? Và cất giấu những gì trong đó?”
“Khi còn ở Sài Gòn, tôi cũng nhận được câu hỏi tương tự. Và câu trả lời là tôi không biết có hầm hay không có hầm. Đơn giản vì căn cứ Long Bình rộng lớn lắm mà trong đó chỉ có Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận chúng tôi, cùng với một số đơn vị Tiếp Vận đồn trú. Phần rộng lớn còn lại là những cơ sở kinh tế hoạt động. Trong phạm vi các cơ sở của chúng tôi không có hầm bí mật nào cả, ngoại trừ hầm nửa nổi nửa chìm sử dụng tồn trữ hàng cần nhiệt độ thấp như điện trì cho máy truyền tin chẳng hạn. Với lại trong tổ chức Tiếp Vận chúng tôi không có khái niệm về hầm bí mật như trong quân đội các anh.”
“Tôi chắc là trong một căn cứ rộng lớn như vậy phải có hầm bí mật chứ?”
“Tôi quả quyết như vậy, còn anh tin thế nào là tùy anh. Tôi xin nhấn mạnh là các cơ sở của ngành Tiếp Vận chúng tôi chỉ choán một phần đất nhỏ, nên tôi không biết toàn bộ khu vực còn lại.”
Hắn im lặng, chừng như hắn đang tìm hiểu bên trong câu trả lời của tôi có thành thật hay không, hoặc tìm câu khác “oánh” tiếp chăng? Tôi tiếp:
“Tôi nghĩ, bây giờ các anh đã kiểm soát toàn bộ căn cứ Long Bình của chúng tôi thì việc lục soát tìm kiếm có gì khó khăn đâu.”
“Thôi được, chúng tôi sang vấn đề khác. Về vận tải của các anh như thế nào? Đường bộ lẫn đường thủy?”
“Chúng tôi có 5 Liên Đoàn Vận Tải tại 5 Vùng Tiếp Vận, phụ trách vận chuyển trong phạm vi địa phương. Còn từ trung ương đến các Vùng do Liên Đoàn Vận Tải trung ương trách nhiệm. Trong hệ thống tổ chức mỗi Sư Đoàn Lục Quân có một Đại Đội Vận Tải. Hải Quân có Hải Đội Quân Vận Hạm. Và Không Quân có những Phi Đoàn Vận Tải. Ngoài ra chúng tôi còn có các khế ước thuê mướn các công ty dân sự cung cấp phương tiện vận chuyển đường bộ lẫn đường thủy nữa”.
“Khả năng trọng tải chung của các anh là bao nhiêu, kể cả phương tiện dân sự mà các anh thuê mướn?”
“Tôi không nắm dữ kiện này, nhưng mọi nhu cầu vận chuyển các loại hàng tiếp liệu của quân đội chúng tôi đều được cung ứng”.
“Về vận tải biển của các anh?”
“Ngành Tiếp Vận chúng tôi có khả năng vận chuyển dọc theo duyên hải, nhưng không có khả năng viễn dương.”
“Vậy thì vũ khí khí tài mà Mỹ cho các anh đến bằng cách nào?”
“Đơn giản thôi. Hoa Kỳ mướn tàu hàng chở đến cung cấp cho chúng tôi.”
“Có trường hợp nào tàu biển cặp các cảng biển miền Trung không?”
“Có”.
“Ngắn gọn quá vậy. Anh cụ thể hơn cho chúng tôi biết?”
“Thí dụ về đạn dược. Chúng tôi thiết lập kế hoạch bổ sung cho các Vùng Tiếp Vận tại các cảng Cam Ranh, Qui Nhơn, Đà Nẳng, rồi trao cho Hoa Kỳ. Thế là Hoa Kỳ ký khế ước với các công ty vận tải đường biển, và chở hàng giao thẳng các nơi theo yêu cầu của chúng tôi. Bằng cách đó, chúng tôi tiết kiệm được thời gian, chi phí, kho tồn trữ trung gian, và an toàn nữa.”
Đấy là buổi thẩm vấn đầu tiên tại trại Tam Hiệp, và là lần thẩm vấn thứ ba kể từ sau ngày 30/04/1975. Trước khi ra cửa, hắn kêu tôi lại đưa tôi mấy tờ giấy ô vuông (cũng gọi là giấy manh) và nói:
“Anh viết lại những gì anh đã nói với chúng tôi sáng nay. Đồng thời tôi muốn anh vẽ những sơ đồ mô tả sự việc rõ hơn. Anh có một tuần để làm việc này.”
“Anh nói mơ hồ quá. Anh cần sơ đồ gì tôi sẽ vẽ nếu tôi biết.”
“Sơ đồ vận chuyển đường thủy. Sơ đồ các Vùng Tiếp Vận của anh ở đâu?”
“Tôi sẽ vẽ. Bây giờ tôi vào trại được chưa?”
“Được. Anh vào đi.”
Tuần sau, lính gác vào gọi tôi. Vẫn địa điểm cũ. Hai tên cộng sản khác đang chụm đầu vào nhau. Tôi gõ cửa. Họ quay nhìn tôi, một trong hai tên hơi gắt giọng: 
“Anh tên Phạm Bá Hoa phải không?”
“Đúng. Tôi đây.” Tôi cũng có chút gắt giọng với hắn.
Im lặng một lúc. Sau khi hắn xem những trang giấy viết và hai sơ đồ tôi trao khi bước vào, hắn lên tiếng:
“Sao anh nặng lời thế. Bài viết mà anh cho là tờ khai à.”
“Các anh có dùng từ ngữ gì đi nữa thì thực chất nó vẫn là tờ khai mà.”
Tên kia chen vào: 
“Thôi được. Cứ luận bàn cách dùng từ không khéo lại lạc đề. Anh cho chúng tôi biết Tổng Cục Tiếp Vận của anh có cố vấn Mỹ không?”
“Từ cuối năm 1972 về trước thì có, sau đó thì không.”
“Họ đối với các anh như thế nào?”
“Anh có thể nêu câu hỏi rõ nghĩa một chút, vì tôi chưa hiểu ý anh muốn hỏi gì.”
Mặt hắn bắt đầu đỏ lên: “Mỹ chỉ huy các anh phải không?”
“Xin lỗi hai anh nghe. Bộ cố vấn Trung Cộng với cố vấn Liên Xô chỉ huy các anh hay sao mà anh hỏi tôi như vậy?”
Hắn đập tay xuống bàn nhưng không mạnh lắm: 
“Anh trả lời câu hỏi của tôi. Anh phải nghiêm túc trước mặt chúng tôi.”
“Lại xin lỗi hai anh. Tôi nêu câu hỏi một cách đúng đắn. Sở dĩ tôi hỏi lại hai anh vì đây là lần đầu tiên tôi nghe như trong câu hỏi có tính xác định Mỹ chỉ huy chúng tôi. Lạ tai lắm. Tôi trả lời là không. Cố vấn là cố vấn, hoàn toàn không có vấn đề người Mỹ chỉ huy chúng tôi như trên màn ảnh nhỏ mà các anh đã tạo dựng trong các vở kịch và tuồng cải lư…[Message Truncated] View full message.
From: OpLa 8 Oct 2018 16:42
To: OpLa 15 of 34
- sáu - 

Trại tập trung Yên Bái.


*******

Sau hai vòng lượn, phi cơ đáp xuống một đường băng nào đó không bằng phẳng, làm phi cơ nhảy tưng tưng. Phi cơ dừng hẳn. Động cơ tắt. Lại ra lệnh:
“Mọi người ngồi yên tại chỗ chờ mở còng.”


HQPD_1329961632.jpgẤy vậy mà khi xuống phi cơ có một anh (tôi quên tên) vẫn còn cái còng trong tay. Mãi khi những chiếc Molotova lệt bệt tới, họ mới tìm được cái chìa khóa mở còng. Tôi lượm được sợi dây ni-lông dùng cột lạp xưởng: 
“Đúng là mình đến cùng địa điểm với các anh đi trước rồi, sợi dây này đủ chứng minh điều đó.”
“Trên đất Bắc, nhất là ở cái phi trường đèo heo gió hú này làm gì có lạp xưởng.”
Tôi trông thấy 2 chiếc phản lực cơ Mig họ giấu trong rừng chồi bên ngoài phi trường một khoảng cách, đúng là 2 chiếc này tôi đã trông thấy trên một tấm không ảnh hồi cuối năm 1974 do Phòng 2 Tổng Tham Mưu cho xem. Tôi quay sang các bạn:
“Các anh ơi! Chắc chắn là chúng mình đang ở vùng núi trên đất Bắc rồi, vì 2 chiếc Mig này tôi thấy trong không ảnh nhưng không nhớ chính xác nơi đây.”
Anh Luân nói: 
“Tôi là dân Bắc Kỳ chính cống mà cũng chịu. Không biết đây là đâu nữa, vì mấy cây gồi này không nói lên được điều gì hết.”
Mỗi xe 20 người cùng với mớ hành lý ít ỏi. Tất cả ngồi trên đống tài sản của mình vì chỉ có sàn xe chớ không có băng ngồi. Tôi ngồi khoảng giữa xe. Ngoài tên lính cộng sản tài xế, còn có một tên ngồi cạnh, và hai tên nữa ngồi trên tấm bửng xe, một tay vịn mui xe một tay cầm súng hướng vào trong xe. Mui và hai bên hông xe phủ kín mít bằng “tấm bạt”, chỉ còn thấy một mảng trời xanh nho nhỏ xa xa, qua khoảng trống giữa hai tên lính cộng sản ngồi trên bửng sau. Tôi nhìn qua nhìn lại trong cái khoảng không gian bé xíu chỉ là do tò mò chớ thật ra có biết đây là nơi nào đâu. Ấy vậy mà bị một tên quát:
“Anh kia, không được quan sát địa hình.”
“Tôi nhìn ra trước mặt tôi mà.” 
“Anh không được lý luận.”
Tôi vừa cười vừa nhìn sang anh Luân, cũng bị quát: 
“Tại sao anh cười?”
“Anh đâu có cấm tôi cười.” 
Hắn quát to: “Im.” 
Nghĩ sao không biết, đôi mắt hắn xoáy vào tôi, gằn giọng: 
“Bọn ngoan cố.” 
Gần như đám cộng sản này từ cấp lớn xuống đến cấp bé, khi thấy đuối lý thì phun ra hai chữ ngoan cố để bịt miệng kẻ thù trước mặt.
Anh Luân nói khẽ: 
“Nói với mấy thằng chó đẻ này làm mẹ gì cho thêm tức.”
Đoàn xe dừng lại. Chúng tôi từng hai người một, xuống xe. Bên tay phải là thị xã Yên Bái nhưng phút chốc bị che khuất bởi một đám đàn bà và đám “oắt tì” (con nít) kéo đến với thái độ sừng sỏ. Miệng hét tay xỉa xói vào nhóm chúng tôi đang chầm chậm xuống bờ sông để lên phà. Họ đứng cách chúng tôi khoảng chục thước, cùng lúc đến mấy chục cái miệng oan oác:
“Đồ bán nước. Giết hết chúng nó đi.”
“Đồ ăn thịt con nít. Đem bắn hết đi.”
“Bọn giặc lái giết người. Cho nó rục xương trong rừng đi.”
Đám lính cộng sản áp tải chúng tôi có vẻ hài lòng với nụ cười của tụi nó khi thấy đám phụ nữ và trẻ con sỉ vả chúng tôi. Chúng tôi im lặng. Lên phà. Cho dẫu mỗi chúng tôi có suy nghĩ gì đi nữa, tôi nghĩ, cũng đều ngỡ ngàng qua “cú sốc” đầu tiên kể từ ngày thua trận! Nhưng ngay bước đầu trên đất xã hội chủ nghĩa 20 năm, sự kiện vừa qua chứng tỏ cộng sản đã nhồi nhét trong đầu người dân từ bé đến lớn một lòng căm thù chúng tôi không thể nào tưởng tượng đến như vậy. Họ nói chúng tôi ăn thịt con nít! Điều này làm tôi nhớ lại câu hỏi của một tên cộng sản mà anh Nguyễn Kim Sơn giới thiệu là cán bộ, khi anh hướng dẫn đến nhà tôi phỏng vấn có thu hình vào những ngày đầu tháng 5 năm 1975. Hắn hỏi tôi: 
“Anh là Đại Tá, chắc anh giết nhiều con nít lắm mới được quân hàm đó phải không?”
Rõ ràng là từ trong quân ra đến dân và từ già đến trẻ trên cái đất xã hội chủ nghĩa này, chỉ có một cách hiểu một cách nói mà thôi! 
Tiếng anh bạn bên cạnh kéo tôi lại thực tế:
“Đây là phà Ô Lâu trên thượng nguồn Sông Hồng. Ngày trước tôi có qua phà này khi tham gia trận đánh Nghĩa Lộ. Vậy là tụi nó đưa mình vô cánh rừng già phía Nam Yên Bái rồi.”
Phà Ô Lâu, chỉ là chiếc xà-lan có chiếc tàu kéo cặp bên hông đẩy đi. Nó không giống bất cứ chiếc phà nào ở Mỹ Thuận hay Cần Thơ cả. Cũ kỹ già nua mà lỗi thời nữa. Sông Hồng Hà mà tôi học trong sách “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” từ cuối những năm 30, bây giờ mới trông thấy, nhưng là trông thấy trong một tình cảnh hoàn toàn ngoài ý muốn.
Phà vừa cặp bến, anh Vũ Tiến Phúc (Đại Tá Pháo Binh) xin đi cầu (đại tiện) vì đau bụng chịu không nỗi nữa. Tụi nó không cho. Mãi đến khi thấy anh Phúc nắm cái quần đi tới đi lui với dáng vẻ iquýnh quáng vì phân bón xã hội chủ nghĩa ưu việt sắp … ra quần, chúng nó mới cho anh chui vô rừng giải quyết. 
Sang bên kia, đoàn xe lại lăn bánh trên đường liên tỉnh 37. Cuối đường này nối vào đường liên tỉnh 32 đến Nghĩa Lộ, tiếp tục theo hướng tây bắc sẽ đến Lai Châu. Lại có một đám đàn bà con nít “dàn chào” nữa. Họ đứng một bên đường, ném đá vào xe trúng tấm bạt nghe lịch bịch. Khi xe qua khỏi, tôi thấy mấy cái miệng nhóp nhép lia lịa. Họ chửi họ nghe luôn chớ chúng tôi có nghe gì đâu. Nghĩ đến con người trong cái xã hội chủ nghĩa này mà tức cười, nhưng không dám cười. Cười là bị quát mà. Họ chẳng khác những cái máy cát-xét, thu thế nào phát ra thế ấy! 
Khoảng 12 giờ trưa, đoàn xe dừng lại một ngã ba đường đất đá. Nhìn thấy căn trại chỉ là mấy cái nhà ọp ẹp xa xa, có lẽ cũng cả cây số chớ không ít. Ngay ngày đầu tiên trên đất Bắc, chúng tôi phải đội cái nắng oi bức của mùa hè khắc nghiệt so với cái nắng hiền hòa trong Nam. Mọi người tay xách nách mang, mồ hôi nhuễ nhoại. Trông thấy mấy anh mập quá kích thước, mang xách lỉnh kỉnh vừa đi vừa thở một cách nặng nhọc mà áy náy, nhưng giờ phút này có ai tiếp được ai đâu! Nhiều anh phải cả tiếng đồng hồ sau mới lê thê lếch thếch đến trại! Khu vực này ở nam tây nam thị xã Yên Bái khoảng 6 cây số.

Trại nhà ngói.
Ở đây gọi là “trại nhà ngói”. Trại này có một dãy nhà duy nhất lợp ngói. Dài khoảng 20 thước và 6 thước nga…[Message Truncated] View full message.
From: OpLa 8 Oct 2018 16:47
To: OpLa 16 of 34
Ngạc nhiên thứ tư.
Cuối tháng 8 năm 1976, bọn họ cho chúng tôi viết thư về gia đình. Vẫn cái cách hướng dẫn viết thư y chang bài bản như lúc ở trại Long Giao (Long Khánh) với Tam Hiệp (Biên Hòa). Vẫn có sức khỏe tốt, lao động tốt, học tập tốt, gia đình an tâm và chấp hành tốt những lệnh địa phương. Họ cho biết là các địa phương đã thông báo cho các gia đình được gởi quà cứ mỗi ba tháng một lần, với trọng lượng tối đa là 5 kí lô. Hầu hết anh em chúng tôi khi nhận thư gia đình đều có mẫu tin trên báo “Nhân Dân”, mới biết được trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn và Lai Châu có tất cả 82 trại, đánh số mà họ gọi là “hòm thư” từ AH 1 đến AH 82, thuộc Đoàn 776 giam giữ mà họ gọi là “quản lý giáo dục”. Bây giờ thì chúng tôi tin con số đó là thật.
Lần đi chợ thứ nhì cũng dùng đòn khiêng. Lần này sang chợ Yên Bái bằng con đò nhỏ chớ không phải bằng phà. Anh Nghĩa, anh Phán, anh Hồ Văn Thành (Đại Tá Quân Vận), anh Luân, anh Trần Văn Lễ (Đại Tá Quân Tiếp Vụ), và tôi. Yên Bái nhỏ lắm, nhà cửa lụp xụp, không thể gọi là phố xá được. Có một dãy khoảng chục căn bằng gạch, còn lại là nhà tranh. Các cửa hàng rải rác nhưng tất cả có ghi hàng chữ quốc doanh hẳn hòi. Tiệm may thì trên bảng ghi “Cửa hàng đo may”. Bên cạnh có “Cửa hàng bách hóa”, nhưng ôi thôi bên trong chỉ có khoảng chục cái kệ với lơ thơ vài chục mặt hàng, mà là hàng hóa thô kệch quá sức. Bên ngoài nhà chợ có nhà máy đường với cơ sở rất ư là ọp ẹp. Tôi nói nhỏ với anh Phán: “Phán ơi! Chợ gì mà giống trại lính quá.”
“Trông chẳng giống làng xã gì của mình cả.”
“Thị xã Yên Bái xã hội chủ nghĩa, chẳng khác buôn làng của đồng bào Thượng vùng Pleiku Kontum trong những năm 1950!” 
Chuẩn bị đi chợ lần thứ ba. Tên võ trang ra lệnh:
“Các anh đi lấy 2 xe cải tiến. Hôm nay mua cải bắp.”
Tôi nhìn qua nhìn lại có ý tìm xe cải tiến, hắn thấy tôi làm thinh mà cứ nhìn qua nhìn lại, hắn quát:
“Không đi lấy xe mà nhìn gì thế kia?”
“Tôi không thấy xe ở đâu làm sao lấy.” 
“Thế cái gì kia?” Vừa gắt gỏng hắn vừa chỉ chiếc xe cút-kít ở gần chuồng heo bên kia dòng suối. 
“Cái đó là xe cải tiến hả bộ đội?”
Hắn trừng mắt nhìn tôi: 
“Anh đùa à. Xe để đấy mà còn hỏi”.
“Không. Tôi không biết đó là xe cải tiến mà cán bộ”.
“Cái anh này buồn cười chưa. Thế các anh gọi nó là cái gì?”
‘Trong Nam chúng tôi gọi nó là “xe cút kít”. 
“Ra lấy đi, đừng có đứng đó mà lý sự”.
Chúng tôi qua chiếc cầu nhỏ, lôi hai chiếc cút-kít từ trong bờ rào ra. Chưa biết phải làm gì tiếp, hắn lại quát:
“Vào kho mượn giây để kéo. Đứng đó làm gì?”
Hóa ra chuyện như thế này. “Xe cải tiến” là chiếc xe mà những năm 50 người Sài Gòn gọi là xe “cút-kít”, loại xe của những toán sửa đường dùng chở gạch đá lặt vặt. Xe cút-kít bằng kim loại, có một bánh xe ở giữa phía trước, cái thùng xe bầu xuống, hai chân đứng phía sau với hai cái càng để đẩy. Với dạng xe đó được xã hội chủ nghĩa “cải tiến” phía trước có hai bánh xe (thay vì một), cái thùng xe hình chữ nhật (thay vì bầu), phía sau cũng có hai chân đứng, và hai cái càng để đẩy. Vật liệu đều bằng cây với ván. Theo họ nói thì trọng lượng xe khi chở đầy vào khoảng 150 kí lô. Chiếc xe cải tiến vận chuyển được những gì trong cái thùng hình chữ nhật đó, là do 3 “nhân lực” (không phải mã lực) kéo và đẩy. Hai sợi dây cột hai bên cái thùng phía trước cho hai người kéo, một sợi dây khác cột ở hai cái càng sau và người cầm càng máng lên vai cho hai cái chân xe cao khỏi mặt đất, và ra sức đẩy tới. “Xe cải tiến chuyển động bằng ba nhân lực” là như vậy. 
Đến đám bắp cải của hợp tác xã nào đó sát bờ nam Sông Hồng, trông thấy một cô gái mặc quần tây áo sơ-mi, mang giày ống, cổ quấn khăn quàng ấm, tóc uốn dợn phần đuôi. Nhìn chung, cô ta là cô gái sáng sủa so với hai cô gái đang trong rẫy bắp cải. Cô ta giao việc cho hai cô kia đang quần quật chặt gốc bắp cải và mang vào sân nhà lều. Tên võ trang bảo chúng tôi đứng chờ, hắn đến nói chuyện với cô gái mang giày ống chắc là về chuyện mua bán. Hắn trở lại anh em chúng tôi:
“Đấy là con gái của nữ đồng chí lãnh đạo Công An Huyện (Trấn Yên). Người ta đưa bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, cho lên xe cột lại. Các anh cẩn thận, không được nói linh tinh nghe chưa?” 
Nói xong, hắn đi về phía ngôi nhà gần bờ sông. Chẳng hiểu hắn muốn dọa chúng tôi hay ngăn cấm chúng tôi nói chuyện với con gái của Công An quận này? Khi nghe hắn nói cô này là con bà Trưởng Công An cũng hơi ớn, chỉ nghe hai chữ Công An đã cảm thấy lạnh lùng rồi, huống chi là con gái của Trưởng Công An, mà lại là Công An quận nữa chớ. 
Một cô lo cân. Cân xong, cô kia chất sang một bên, lúc ấy có tiếng của cô mang giày ống:
“Yến. Em gở hết những lá xanh bên ngoài rồi cân lại cho mấy anh đó.”
Thế là hai cô gái phụ việc làm lại từ đầu mà chẳng nghe càu nhàu gì cả, trong khi cô gái mang giày ống gọi chúng tôi đến nhận bắp cải. Đang chất bắp cải lên xe, cô ta đứng cạnh tôi: 
“Anh biết dùng lá cải bắp làm dưa ăn không?” 
Tôi dùng chữ bắp cải còn cô ta dùng chữ cải bắp. Thấy cô ta nói chuyện có vẻ nhẹ nhàng và tự nhiên, tôi đáp:
“Có. Tôi biết cách làm và cũng biết ăn nữa cô.”
“Tôi cho các anh những lá này, đem về cắt ra phơi một nắng,nấu nước muối đổ vào. Vài hôm là ăn được.”
“Không được đâu cô.”
“ Anh vừa nói anh ăn được mà?.”
“Cô phải nói với anh bộ đội võ trang mới được. Nếu cô không nói thì anh bộ đội võ trang cho là tôi ăn cắp, tôi sẽ bị phạt giam khi về trại.”
“Được. Tôi sẽ nói cho anh.”
Trong khi chờ tên võ trang trở lại, cô ta hỏi: 
“Quê anh ở đâu?”
“Tôi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mà trong Nam chúng tôi thường gọi là Miền Tây, nhưng tôi sống ở Sài Gòn lâu rồi cô.”
“Anh có thường được thư gia đình không?”
Tôi khựng lại, vì không hiểu cô ta hỏi thật hay dò xét. Con của Trưởng Công An quận mà. Thấy tôi ngập ngừng, cô ta nói:
“Tôi hỏi thật, anh đừng sợ. Tôi có vào Nam rồi. Tôi thấy người miền Nam thành thật mà dễ mến nữa. Tôi nói thật đấy.”
Tôi có phần vững dạ: 
“Vâng. Thỉnh thoảng thôi, vì người ta ấn định thời gian chớ không phải lúc nào cũng được gởi đâu cô.” 
“Lần sau các anh có ra đây, mang theo thư đưa tôi gởi cho. Các anh đừng sợ. Tôi …[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 18:20 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 16:52
To: OpLa 17 of 34
Và cứ như vậy mà đưa nước từ dòng suối nhỏ lên đến bậc thang trên cùng. 
Khi sẳn sàng để cấy, có nghĩa là đất ở mỗi bậc thang tương đối bằng phẳng, chuyền nước lên đủ rồi, phân chuồng đã bón lót xong, lúc ấy anh Trần Thanh Liêm (Đại Tá Quân Tiếp Vụ) là người phụ trách nhổ mạ. Mạ ở đây khi nhổ để cấy, nó cao chỉ khoảng 10 đến 12 phân thôi (0.12m). Trông cây mạ nhỏ nhắn gầy gò đến thảm hại, thì liệu đến mùa “sinh nở” nó cho được bao nhiêu hột lúa? Khi cấy thì tù chính trị chúng tôi không cấy, mà có toán thợ cấy hơn chục đàn bà con gái từ Hợp Tác Xã Việt Cường vào cấy “vần công đổi công”. Bà nhiều tuổi nhất đứng nhìn những bó mạ bé tí xíu, lắc đầu, sau khi nhổ toẹt bãi nước trầu đỏ choét xuống ruộng, bà vừa cười vừa nói:
“Mấy ông tướng nhổ mạ kiểu này làm sao bọn tôi cấy được.” 
Không biết chữ “tướng” mà bà vừa nói, là do quen miệng hay có ý vỗ về an ủi hoặc xách mé gì chúng tôi đây?
Tiếng nhỏ nhẹ của cô gái trẻ:
“Thôi, mình chuẩn bị lại đi, đứng đó mà nói bao giờ mới xong.” 
Thế là cô gái vừa nói vừa tháo các bó mạ ra, xếp từng cọng mạ ngay ngắn gốc ngọn. Trong toán thợ cấy có cô trẻ nhất mà mấy cô trong toán gọi là “thợ cấy chuẩn”. Nhiệm vụ của cô gái này là cấy các đường chuẩn ngang dọc, và các thợ cấy khác theo đó mà cấy sẽ thẳng hàng. Cấy chuẩn xong, cô ta sang mảnh ruộng bậc thang kế tiếp vẫn với nhiệm vụ cấy chuẩn. Thợ cấy, để nắm mạ nhỏ nhắn trên lòng bàn tay trái, trong khi ngón cái của tay phải tách từng nhúm mạ vài ba cọng, và ấn gốc mạ xuống ruộng. Vì cọng mạ nhỏ như vậy nên thợ cấy không dùng “cây nọc cấy” như thợ cấy ở đồng ruộng miền Nam. 
Một tháng sau, quản giáo với võ trang hướng dẫn chúng tôi “làm cỏ sục bùn”. Nghe chúng tôi bàn tán cái công việc lạ tai quá, có vẻ như tên võ trang tưởng chúng tôi nói xiên nói xỏ gì đó nên hắn giải thích với giọng khó ưa:
“Này, đừng có lý luận lôi thôi. Làm cỏ sục bùn là vừa làm cỏ vừa quậy cho bùn lên bồi dưỡng cho cây lúa. Trong bùn có phân đấy. Khẩn trương lên.”
Mỗi người chúng tôi đứng cách nhau 4 hàng lúa tức khoảng một thước, khom người xuống, mười ngón tay thay cho bàn cào lùa xuống bùn đẩy tới kéo lui giữa hai hàng lúa, ngón tay hơi cong lại cào bùn đất lên còn cỏ thì tróc gốc “lăn quay cu đơ” nổi chềnh ềnh trên mặt nước mà chết tức tưởi. 
Trong khi chờ đợi mùa gặt mà họ gọi là “thu hoạch”, Tổ chúng tôi phải vào xã Việt Cường (quận Trấn Yên) trả công cho toán thợ cấy tháng trước, bằng cách đắp đập làm hồ nuôi cá trắm cỏ. Tại sao gọi đắp đập làm hồ? Vùng này núi rừng trùng trùng điệp điệp. Mỗi hai bên triền núi là cái thung lũng, cứ đắp đập chận hai đầu, chỉ cần dành cái cống nhỏ cho dòng nước thượng nguồn vào, và cái đập tràn ở hạ nguồn để thoát bớt, là có cái hồ rồi. 
Cứ sáng đi chiều tối về trên đoạn đường dài cộng chung áng chừng trên dưới 12 cây số. Tổ nhà bếp cử một toán theo nấu ăn tại chỗ. Mỗi người mỗi ngày được Hợp tác Xã cấp cho một kí lô khoai mì sống để ăn thêm lúc giữa trưa mà họ gọi là “bồi dưỡng”. Tôi thấy ông cụ mặc chiếc áo dạ của quân đội Pháp ngày trước, mà lúc học ở Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt tôi được lãnh để mặc lúc canh gác ban đêm. Ông ta cư xử với chúng tôi phải nói là lịch sự, luôn luôn gọi chúng tôi bằng ông. Tôi bắt chuyện:
“Xin lỗi cụ. Cái áo dạ này mặc ấm lắm. Ở đây có bán sao cụ?”
“Không ông ơi! Trước kia tôi là Thượng Sĩ trong quân đội Pháp, tôi giữ cho đến bây giờ đấy. Gia đình tôi cùng nhiều gia đình trong quân đội Pháp ở lại sau Hiệp Định 1954, đều bị chỉ định cư trú vùng này từ năm 1955. Tôi ở Thái Bình chứ có phải quê quán nơi đây đâu.” 
“Số gia đình chỉ định cư trú ở đây đông không cụ?” 
“Vùng xã Việt Cường này hình thành là do các gia đình bị chỉ định cư trú đấy.”
“Trước khi đến đây, họ có bắt cụ đi cải tạo như chúng tôi không?”
“Không. Vì tôi là Hạ Sĩ Quan. Còn Sĩ Quan thì họ bắt đi hết. Có người cũng đến hai ba năm mới về. Mấy ông bao lâu rồi?”
“Gần 2 năm rồi cụ.”
“Họ có nói với mấy ông thời hạn bao lâu không?”
“Khi thông cáo gọi đi học tập cải tạo họ bảo chuẩn bị cho 30 ngày. Sau 12 lần 30 ngày, họ bắt học tập chính sách cải tạo thời hạn 3 năm, nhưng mù mờ lắm cụ ơi!”
“Mấy ông tin họ là chết đấy. Tôi chỉ khuyên mấy ông một điều là phải giữ sức khỏe, chớ để bỏ xác ở cái xó rừng này như chúng tôi. Không ai thương mấy ông đâu, chỉ có mấy ông thương mấy ông thôi. Đừngbao giờ nghe hai chữ nhân đạo họ nói”.
“Cám ơn cụ rất nhiều.”
Trông thấy tên quản giáo lù lù đến, tôi nói to cho hắn nghe:
“Cụ ơi! Cụ nói là các cô ấy lột võ khoai và luộc giùm chúng tôi phải không cụ?”
“Phải. Mỗi ngày chúng nó làm giúp mấy ông vì bếp mấy ông có hai người làm sao kịp. Chúng nó là thợ cấy ra cấy vần công cho mấy ông đó.”
“Kia rồi. Cô gái áo trắng chính là cô thợ cấy chuẩn, phải không cụ? Nhanh tay mà lại thẳng hàng nữa.”
“Nó giỏi nhất của Hợp Tác Xã này đó ông.”
Tên quản giáo -Trung Úy Bật- hướng dẫn việc:
“Các anh vạt triền núi kéo đất ra đắp đập, còn hai bên má đập sẽ có trâu của Hợp Tác Xã ra “đầm”. Ngoài dụng cụ mang theo từ trại, Hợp Tác Xã sẽ cho mượn ván để làm bàn trang kéo đất. Tất cả dụng cụ để lại tại chỗ trước khi về trại. Bây giờ các anh tổ chức công việc mà tiến hành.” 
Chúng tôi chia ra: Toán xén đất triền núi, toán dùng bàn trang kéo đất ra mặt đập, toán dùng cuốc san bằng mặt đập. “Bàn trang”, là một tấm ván dầy một chút để dùng được lâu, kích thước ngang 0.4m dài 0.8m. Hai bên hông đóng hai cây đinh lớn để cột dây, và đầu dây cột vào thanh gỗ tròn do hai người kéo từ phía trước, trong khi người thứ ba từ phía sau, cầm thanh gỗ đóng chặt vào tấm ván để dựng đứng bàn trang lên. Thế là một lượng đất bị cái mặt bằng của tấm ván mà họ gọi là bàn trang đẩy đi. Cứ như thế mà ngày này sang ngày khác trong ba tuần liên tiếp, chúng tôi làm xong cái hồ cho Hợp Tác Xã vừa nuôi cá vừa có nguồn nước tưới cho vùng này. 
Trong thời gian đắp đập, chúng tôi thêm một lần trông thấy bản chất dã man của mấy tên gọi là cán bộ. Chuyện về con chó của tên quản giáo. Một hôm trong lúc giải lao giữa buổi, anh Nguyễn Văn Kim (Đại Tá Tổng Nha Tài Chánh & Thanh Tra Quân Phí) trông thấy tên quản giáo bắt con chó của hắn đem làm thịt. Anh nói:
“Con chó hắn …[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 18:21 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 16:54
To: OpLa 18 of 34
Cũng xã hội chủ nghĩa có cái chính sách rất ư kỳ lạ. Họ cưỡng bách phụ nữ phải đi làm, bằng cách chỉ cho các con của người mẹ có đi làm mới được hưởng quyền lợi dù hết sức nhỏ nhoi. Nếu trong gia đình chỉ có người chồng đi làm còn vợ ở nhà, thì các con của gia đình này không có chút quyền lợi gì trong cuộc sống cả. Nói rõ hơn là những đứa con đó không có tiêu chuẩn gạo hằng tháng. Trong một xã hội mà người dân chỉ biết có gạo với gạo, còn gì mà nói nữa! Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, từ trước cho đến năm 1977 là như vậy đó! Đến năm 1986, càng tệ hơn nữa. Lúc ấy người dân xã hội chủ nghĩa sắp ngã quỵ, đảng cộng sản sắp sụp đổ, họ mới buộc lòng phải thay đổi nhưng là chỉ thay đổi kinh tế để làm giàu riêng tư chớ không thay đổi chính trị vì họ sợ mất độc quyền lãnh đạo. 
Cũng nói thêm rằng, những năm 50 khi nắm quyền cai trị nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ông Hồ khoe cái chính sách mà ông gọi là “giải phóng phụ nữ”, nhưng thực tế người phụ nữ bị cưỡng bách đi làm như nói ở trên. Chưa hết, khi lao động mà cần đến đến sự vận chuyển, thì ngày trước phụ nữ dùng cái đòn gánh trên vai để gánh hai cái thúng hay thùng ở hai đầu đòn gánh. Ông Hồ giải phóng phụ nữ bằng cách dùng ba người phụ nữ đẩy cái xe cải tiến với trọng lượng 150 kí lô. Nghĩa là ông Hồ không cho gánh nữa mà là đẩy xe để chuyên chở trọng ượng nhiều hơn gánh. Nói rõ hơn, người phụ nữ phải làm việc nặng nhọc hơn! Chính sách giải phóng phụ nữ của ông Hồ là như vậy đó! 
Nói đến giải phóng phụ nữ, không thể quên sự đóng góp quan trọng của những nhà văn trong “Nhóm Tự Lực Văn Đoàn” thời những năm 30-50, đã hướng dẫn xã hội thời ấy trong cuộc vận động đưa thành phần nữ giới bị xã hội phong kiến cột chặt trong khung cảnh gia đình từ ngày xưa, bước chân vào xã hội với những công việc như nam giới. Và đã thành công ngoạn mục. Nếu phải dùng chữ “giải phóng” thì đó mới thật sự là giải phóng. 
Hồ Chí Minh là một người lãnh đạo, say mê trong việc dùng những nhóm chữ rất kêu, rất văn chương thường gọi là “mỹ từ” nhưng thật sự là trống rỗng. Nghĩ cho cùng, cái cách đó lại giúp ông nắm cổ được những cấp dưới ông vì thời đó có mấy người có học đâu. Lác đác cũng có đảng viên có học, nhưng họ nghe lời bác của họ như những kẻ ngông cuồng điên dại. Chẳng những thế, họ cứ theo lời họ Hồ “dạy” rồi truyền khắp dân gian phải nghe theo. Lần hồi họ thần thánh hóa và truyền tụng cho những thế hệ kế tiếp cộng với nền giáo dục một chiều, kết quả là những thế hệ khi ra khỏi hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa, chỉ biết nghe những lời của ông truyền lại cứ như nghe “lời phán của thánh”. Mãi đến nay, chẳng mấy người trong số họ, dám đụng đến ông thánh của họ, mà thật ra “ông thánh” của họ chỉ là một con người ăn cắp văn, một con người ăn cắp tình, một con người gian trá quỷ quyệt trong lãnh đạo. Nói chung, họ Hồ là một người cộng sản mà khi đã là cộng sản thì không còn nhân cách con người bình thường trong xã hội, và khi con người không còn nhân cách thì con người đó còn gì để nói. 

Trở lại cái việc đắp đập. Anh em chúng tôi trong hai Tổ này đã hai ba lần đắp đập nên tổ chức công việc nhanh lắm. Sau đó, cứ phá triền núi, kéo đất đổ xuống đường thông thủy ngăn dần dòng nước thượng lưu. Đào một đường bên cạnh đập gọi là đập tràn, để khi mực nước cao quá thì nước theo đường đó đổ xuống hạ lưu. Khi muốn bắt cá cứ cuốc giữa mặt đập mà xả nước. Bắt cá xong, muốn nuôi cá nữa thì đắp phần giữa mặt đập lại là có cái hồ như trước. Họ không làm cống để tháo nước, mà khoa học kỹ thuật của họ trong đắp đập nuôi cá là như vậy.
Nguồn nước dùng cho mọi nhu cầu của “cư dân trong ngưu ốc” bất đắc dĩ này là dòng suối nhỏ, cách chuồng trâu chúng tôi ở khoảng 100 thước. Nước thì có nhưng đục lắm, vì phía trên có chỗ cho trâu bò qua lại hai bên bờ. Đục thì đục, có nước dùng là may rồi. Mỗi chiều sau khi tắm giặt xong, nói nghe ngon lành lắm nhưng thật sự chỉ là qua loa thôi vì trời lạnh mà nước suối càng lạnh hơn. Nhóm “ca nhạc sĩ bất đắc dĩ” chúng tôi tập hát để “trình diễn” trong đêm Giao Thừa: Anh Nguyễn Thành Trí (Đại Tá, Thủy Quân Lục Chiến), anh Nguyễn Quang Chiểu (Đại Tá Bộ Binh), anh Nguyễn Phán (Đại Tá, Quân Đoàn 2), anh Nguyễn Thiều (Đại Tá Bộ Binh), và tôi. Anh Trí sáng tác bài “Đâu Cũng Là Quê Hương”. Tôi nói “bất đắc dĩ”, vì bộ chỉ huy trại bảo tù chính trị chúng tôi tổ chức ca hát mừng Xuân. 
Trời lạnh nhưng vẫn phải tập, vì khi về đến trại là đêm Giao Thừa rồi, bây giờ không tập thì không có thì giờ nào khác. Còn nếu không tổ chức ca hát mừng Xuân, không khéo lại bị bọn họ chụp cho cái mũ “chống đối cải tạo” hay “lấy nạng chống trời” là lắm thứ rắc rối. Không ngờ khi tập hát, dân trong làng nhất là đám con nít với những cô gái tuổi choai choai, kéo nhau đến xem đông lắm. Trông cũng hay hay với những “khán giả măng non” này.
Một tuần trôi qua, dưới cái lạnh đậm đà của ngày cuối năm âm lịch, chúng tôi giã từ “ngưu ốc”, nơi mà có muốn hay không muốn, cũng để lại trong chúng tôi những buổi chiều khó quên trong cuộc sống của người tù chính trị trong tay cộng sản. Về đến trại, tắm giặt, cơm xong là chuẩn bị vào chương trình “văn nghệ Giao Thừa”. 

Tù trình diễn tù xem. Nhưng cũng có một số quản giáo với võ trang ngồi xem từ đầu đến cuối. Sau phần văn nghệ đầu là màn Táo Quân. Các vai:
Ngọc Hoàng Thượng Đế: Anh Phạm Duy Khang (Đại Tá Bộ Binh).
Nam Tào Bắc Đẩu: Anh Huỳnh Minh Quang (Đại Tá Không Quân) với một anh nữa mà tôi quên tên.
Táo Trại 2: Anh Nguyễn Ngọc Sáu (Đại Tá Pháo Binh).
Trại Cốc là tên gọi lúc tất cả chúng tôi mới chuyến đến, về sau khi tách một nửa sang Trại 3 thì trại chúng tôi gọi là Trại 2.
Màn này bắt đầu với hoạt cảnh Táo Trại 2 đội một bó củi vào thiên đình, áo quần xốc xếch. Táo quỳ xuống xin lỗi Ngọc Hoàng đến trễ, vì phải lên núi lấy củi cho nhà bếp. Ngọc Hoàng cảm động quá nên tha lỗi. Táo Trại 2 móc cái sớ bèo nhèo trong túi ra, rồi bắt đầu đọc. Trong sớ có đoạn than phiền vấn đề lao động vất vả nhưng ăn không đủ no, đau ốm không thuốc uống, ..v..v.. Hai ông Nam Tào Bắc Đẩu mũi lòng, bèn lên tiếng ủng hộ Táo Trại 2 bằng cách cường điệu thêm khi tâu với Ngọc Hoàng. Thế là Ngọc Hoàng Thượng Đế Phạm Duy Khang nổi trận lôi đình, ra lệnh cho Trại 2 phải sửa sai. Tù chính t…[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 18:03 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 16:56
To: OpLa 19 of 34
RX là gì? 

Chiều ngày 1 tháng 9 năm 1978, trong lúc Đội 29 với 30 chúng tôi ngồi viết khai báo trong câu lạc bộ gần loa phóng thanh. Thường ngày loa này không được mở, nhưng chiều nay bỗng dưng chúng tôi “bị nghe” chương trình truyền thanh chuẩn bị cho ngày mai -2 tháng 9- lễ độc lập của chúng. Trong bài diễn văn dài lê thê của ông Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, có một đoạn ngắn cuốn hút anh em chúng tôi đến mức đều ngưng viết. Đó là vấn đề tù chính trị chúng tôi, ông ta thẳng thừng rằng:
“… Bọn ngụy quân ngụy quyền và đảng phái phản động là bọn đã gây tội ác tầy trời, ta không thể tha thứ cho chúng …” 
Lúc ấy không có tên cán bộ nào có mặt, có lẽ chúng chuẩn bị về nhà sớm. Vì vậy mà điều đầu tiên là chúng tôi xúi hai anh Đội Trưởng xin về sớm với lý do viện dẫn ngày mai nghỉ lễ. Rồi cùng nhau tụm năm tụm ba bàn luận suy đoán với bao nhiêu là hình ảnh được vẽ ra và chồng lên nhau bắt nguồn từ lời tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng, tên cộng sản mà năm 1958 đã chan1h thức công nhận các đảo và quần đảo vùng Biển Đông thuộc về Trung Hoa cộng sản. Chúng tôi trông chờ vào bài diễn văn của ông Thủ Tướng cộng sản hôm nay, vì nghe chừng sẽ có quyết định liên quan đến tù chính trị. Thế nhưng qua lời của ông Đồng vừa rồi, đúng là ông ta có nói đến chúng tôi, nhưng điều mà ông ta nói chắng khác thùng nước lạnh tạt vào anh em chúng tôi choáng váng đến tối tăm mặt mũi!
Sau bữa ăn bo-bo chiều, cửa buồng giam đóng rầm một cái, tiếng click khô khan của cái ống khóa vừa bấm lại, từng nhóm anh em chúng tôi tiếp tục bàn luận chung quanh lời tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng lúc trưa. Một bạn trong nhóm chúng tôi ở cuối góc phòng mở đầu với câu ngắn mà không ai hiểu: 
“Vậy là RX rồi”. 
“RX là gì vậy cha nội?”
“RX là rục xương chớ là gì nữa! Rõ vớ vẫn”.
“Đấy. Các anh tin vào cái gọi là khoan hồng nhân đạo của chúng nó nữa đi. Nó lừa được bọn mình vô tù rồi nó nói huỵch toẹt ra đấy”.
“Thôi. Nóng làm chi bạn ơi! Thế bạn có tin cái chính sách 10 điểm của họ hay không mà bạn ngồi đây?”
“Tôi thì khác”.
“Cứ cho là bạn khác với bọn tôi, nhưng nhìn lại thì chúng mình cũng thế thôi bạn à! Là tù thua trận cả mà. Nặng nhẹ xách mé làm chi cho đau lòng nhau!”
“Tôi xin các anh cứ mặc cha nó! Cái quan trọng là mình phải vững tin rằng, chúng mình sẽ được ra khỏi trại tập trung dù chưa biết là sẽ ra như thế nào. Thế giới, nhất là Hoa Kỳ, vẫn xem Việt Nam là một vấn đề thì ta vẫn còn hy vọng mà. Bây giờ, vấn đề của chúng ta là giữ vững nghị lực để đừng bỏ xác trong nhà tù cộng sản. Thế thôi”. 
“Các anh ơi! Khi bước vào hoạt động chính trị, người ta buộc phải sử dụng ngôn từ của chính trị, cái thứ ngôn ngữ không nhất thiết 1 với 1 là 2 đâu. Nhất là chính trị trong cái quốc gia nghèo giữa một thế giới cạnh tranh nhau vì quyền lợi thì sự ổn định khó mà có được, nếu không nói là ảo tưởng. Trong một quốc gia không có khả năng độc lập kinh tế như Việt Nam thì đừng hòng có độc lập chính trị. Với lại, những nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam, được chọn từ thành phần 3 đời bần cố nông để đại diện công nhân nông dân thì họ có học hành gì đâu. Khi lãnh đạo mà không có kiến thức thì đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa càng ngày càng xuống vực thẳm là điều hiển nhiên. Rõ ràng nhất là cái nhóm lãnh đạo loại ấy lúc nào cũng vỗ ngực lớn tiếng bảo vệ đất nước cả”.
“Thằng cộng sản nó đếch cần đến kiến thức mà chỉ cần lưu manh để nắm quyền cả đời đấy. Cho nên chẳng phải riêng chúng mình, mà là cả dân tộc cứ như bị nhốt trong cái nhà tù bằng cả một quốc gia ấy”. 
“Như Trung cộng thôi. Chúng nó định nhốt các Tướng Lãnh của Đài Loan đến rục xương trong tù, thế nhưng mới bước đầu chấp nhận ảnh hưởng của Hoa Kỳ là chúng nó thả các ông ấy về Đài Loan sau 26 năm trong tù đấy”. 
“Thôi các bạn ơi! Làm ơn ngưng lại để ngủ cho có sức để mai còn khai báo tiếp. Không xong là chúng nó mắng đến phát tức bạn à!” 
Nằm cạnh tôi, bên phải là anh Ngô Văn Huế (Công Binh). Anh nói nho nhỏ:
“Hồi đi trình diện, tôi ước tính ít nhất cũng phải 5 năm chớ tôi không tin là 30 ngày, vì cộng sản từng chà đạp Hiệp Định Genève 1954 và Hiệp Định Paris 1973 thì còn chỗ nào để mà tin nó”.
Tôi tiếp lời cũng nho nhỏ như vậy:
“Thật ra đâu có ai trong chúng ta dám nghĩ là đến một lúc nào, chúng ta sẽ là nguồn lợi cho cộng sản, như sự kiện Cu Ba đã từng thả tù chính trị sang Mỹ để đổi lấy máy cày nông nghiệp đó. Trong chính trị việc gì cũng có thể xảy ra cả. Nói rõ hơn, điều mà tôi hy vọng là chúng mình sẽ ra khỏi nhà tù bắt nguồn từ phía Hoa Kỳ, và biết đâu Hoa Kỳ sẽ đổi chúng ta bằng cách cấp cho chúng nó (cộng sản Việt Nam) những thứ gì đó cũng nên.” 
Anh Nguyễn Xuân Hường (Thiết Giáp) nằm bên trái tôi: 
“Bây giờ tôi không còn tin bất cứ điều gì chúng nó nói cả. Tôi đồng ý là mình phải giữ vững nghị lực để sống, còn việc gì sẽ tới phải tới”.

Lại khai báo. 

Toàn bộ những bản khai báo của từng người phải đóng lại thành tập. Chúng bảo bên ngoài phải ghi “Cuộc Đời Tôi”. Tập khai báo dày hay mỏng là tùy theo từng người viết, nhưng dưới 200 trang là bị chúng nó mắng nhiếc, hay ít ra cũng lời nặng tiếng nhẹ vì cho rằng chưa thành thật khai báo.
Khai báo bản thân xong tưởng là yên thân, nhưng đâu dễ dàng vậy. Vì đám Công An từ Hà Nội lại xuống hướng dẫn khai báo tập thể. Nói cho đúng là “tập thể khai báo về những Tướng Lãnh của mình”. Nói theo ngôn ngữ giang hồ là chúng nó bắt chúng tôi “bề hội đồng” Tướng Lãnh của mình đó. Tất cả tù chính trị cấp Đại Tá từ Yên Bái xuống đây, chúng nó bảo chia thành 3 nhóm: Nhóm Quân Khu 1 + 2. Nhóm Quân Khu 3 + Biệt Khu Thủ Đô + Trung Ương. Và nhóm Quân Khu 4. Chúng nó hướng dẫn chọn như thế này: Không căn cứ vào thời gian sau cùng phục vụ ở đâu, mà căn cứ vào những vị Tướng Lãnh từng là cấp chỉ huy của mình để chọn nhóm. Thật ra anh em chúng tôi ráp lại theo nhóm là do ý thích, vì đã là Đại Tá thì không dưới quyền vị này cũng dưới quyền vị khác. Do đó việc tham gia vào nhóm là do chúng tôi thỏa thuận với nhau chớ chúng nó có biết gì đâu. 
Tôi chọn vào nhóm Quân Khu 4, dù rằng thời gian tôi phục vụ ở Bộ Tổng Tham Mưu lâu hơn các nơi khác. Mỗi người chọn những vị Tướng mà mình đã phục vụ hoặc mình biết, cuố…[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 18:06 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 16:58
To: OpLa 20 of 34
Cộng sản nuôi tù. 

Trại tập trung này thường xuyên là ăn độn, nhưng độn theo lương thực thì từng đợt vài ba tuần hay vài ba tháng. Chẳng hạn như bo-bo thì thời gian dài hơn, khoai mì xắc từng cọng phơi khô thì vài tuần, khoai tây tươi nguyên củ thì theo mùa, bột mì luộc thì tùy theo viện trợ từ ngoại quốc. Nói là độn nhưng thật sự ăn 100% chớ không phải một phần gạo một phần độn đâu. Bo-bo là thức ăn dành cho ngựa ngoại quốc, cọng khoai mì phơi khô là thức ăn dành cho heo trong nước, nếu nói cho văn chương một chút gọi là thức ăn dành cho gia súc. Vì là thức ăn dành cho những động vật không phải con người, nên người ta không cần giữ vệ sinh từ lúc sản xuất, tồn trữ, chuyển vận, đến cung cấp cho bếp trại. Nghĩa là trong tình trạng không sạch sẽ chút nào, vì khi đổ ra sân người ta dùng bàn cào hay chổi để trải ra phơi hay gom lại cho vào bao. Hãy hình dung bữa ăn với cọng khoai mì khô đã nấu chín. Mỗi khẩu phần từ 10 đến 12 cọng, nhỏ thì bằng ngón tay út còn lớn thì bằng ngón tay cái, và dài nhất cũng khoảng 12 phân tây (0.12 thước). Bên cạnh những cọng khoai mì nhơn nhớt, là muỗng nước muối với khoảng mười cọng rau mùa hè (rau muống) hay rau mùa đông (bắp cải, su hào). Đấy là một phần ăn. 
Trong số những thứ lương thực thay gạo đó, bo-bo là tai hại nhất, vì cái võ lụa của nó không tiêu được, nên nó phải “cào” những gì vướng mắc trên đường đi từ cái bao tử ra đến cái thùng gỗ đựng nó, chờ khiêng xuống khu vực trồng rau để “chăm bón”. Cuối cùng, nó lại quay vòng trở vào bao tử chúng tôi dưới dạng rauCó bạn dùng cây tăm xỉa răng, ghim từng hột bo bo cho vào miệng. Cách ăn này vừa nhai thật kỷ, vừa đánh lừa cái bao tử làm cho “nó” tưởng là được ăn nhiều! 

Năm 1978-1979, tôi với anh Nguyễn Tài Lâm ăn chung. Tuy bo-bo “nó hung hăng” như vậy, nhưng hai chúng tôi cứ trông đến ngày thứ bảy nhờ anh Sét -em rể anh Lâm- ở buồng giam khác, mua giùm một phần bo-bo với giá một đồng. Hai đứa chia nhau mỗi người một nửa, giúp cái bao tử đỡ phần lỏng lẽo! Theo lời anh Sét thì anh bạn muốn có một phần bo-bo bán cho chúng tôi, mỗi chiều anh ấy để lại một muỗng. Ngày thứ hai để lại hai muỗng từ phần bo-bo mới lãnh và gộp muỗng bo-bo của ngày thứ nhất vào phần ăn lúc ấy. Ngày thứ ba để lại ba muỗng và gộp hai muỗng của ngày thứ hai vào phần ăn lúc ấy. Và cứ như thế cho đến ngày thứ bảy là đủ một phần, anh ấy bán cho chúng tôi lấy tiền lén gởi mua thuốc lào hút.
Bây giờ quí vị quí bạn hãy hình dung thời gian tại trại tập trung Nam Hà vào chiều Ba Mươi Tết Nguyên Đán đầu năm 1979. Nhà bếp phát cho mỗi người tù chúng tôi một cái bánh chưn, mỗi cạnh 15 phân tây kể cả lớp lá dông thật dày bên ngoài. Tôi với anh Lâm phác thảo “kế hoạch” ăn hai cái bánh chưn đó. Chiều Ba Mươi ăn cái bánh của tôi, và sáng Mồng Một ăn cái bánh chưn của anh Lâm. Chúng tôi nhẹ nhàng cắt dây, rồi từ từ gở từng miếng lá nhỏ cứ như sợ nó văng mất từng hột nếp hay miếng thịt nho nhỏ bên trong ấy, và … trời đất ơi, một nửa cái bánh còn nguyên hột nếp! Nếu có bạn nào trông thấy hai cái mặt chúng tôi lúc ấy, cũng không thể nào tưởng tượng cái bao tử của chúng tôi nó thất vọng đến như vậy!

Cầu cơ. 

Nhóm anh em chúng tôi gồm các anh Cao Văn Phước, Ngô Văn Huế, Vũ Tiến Phúc, Cao Nguyên Khoa, Phạm Duy Khang, anh Đàm Quang Yêu, và tôi, bắt đầu chơi “cơ” sau khi vào buồng giam, thường gọi là “cầu cơ”. Thỉnh thoảng có thêm anh Nguyễn Kỳ Nguyện và anh Đặng Văn Hậu. “Cầu cơ” cần có cái bàn và con cơ. “Cơ” phải là mảnh ván hòm (quan tài) lấy từ cái huyệt mà thân nhân họ đã hốt cốt mới “linh thiêng”. Một hôm anh Khang trong nhóm đào ao nuôi cá dưới đồng, lượm được một mảnh ván mà anh nghĩ là “ván hòm”, đem về cắt gọt theo hình dáng cái cơ. “Bàn cơ” là mảnh giấy có viết đủ các mẫu tự Việt Nam, một hàng số từ 0 đến 9. Ngoài ra còn viết nguyên chữ đúng/sai, có/không, tốt/xấu để đỡ phải ráp các mẫu tự. Chúng tôi dùng hai cái mền treo lên để tạo thành cái phòng kín, tránh sự rình rập của đám Công An tuần tiểu từ cửa sổ nhìn vào. Chúng nó bắt gặp cũng phiền phức lắm. 
Hôm đầu tiên, anh Khang “ngồi cơ”, anh Yêu khấn vái gọi hồn. Đại khái thì anh giới thiệu với hồn ma hồn quỷ rằng: 
“Chúng tôi là tù chính trị miền Nam, bị giam tại trại tập trung Nam Hà này, xin thỉnh hồn các vị khuất mặt khuất mày nào đi ngang đây, vui lòng nhập cơ để chúng tôi nhờ giúp đỡ độ trì”. 
Anh Phước khều tôi: “Ê! Cơ chạy rồi kìa”.
Nhưng cơ lại ngừng. Một lúc sau thì cơ chạy lại, tức là có hồn nào đó nhập vô rồi. Anh Yêu lại lâm râm khấn vái: 
“Vị khuất mặt khuất mày nào đã nhập vô cơ xin nhập luôn chớ đừng ngập ngừng, để anh em chúng tôi hỏi đôi điều”.
Tôi phụ trách ráp các mẫu tự mà cơ chỉ vào, và có câu sau đây:
“Tôi tên Thọ, Tiểu Thần phụ trách khu này. Trước kia tôi là công nhân nhà máy dệt Nam Định, chết vì không có thuốc trị dạ dày (bao tử). Hiện tôi còn một vợ và bốn con ở tại Nam Định” (có cho số nhà và tên đường). 
“Chúng tôi có thể nhờ ông Thọ cho biết tin tức gia đình ở Sài Gòn được không?”
“Được. Nhưng chờ tôi xin phép Thổ Thần trước”.
Cơ ngưng chạy. Trong tích tắc thì chạy lại, nhưng là hồn khác:
“Tôi tên Ban, tù hình sự, đã chết vì đói tại Trại Mễ ở Phủ Lý. Hiện tôi là “ma đói”. Các ông có gì cho tôi ăn không”.
Tôi lấy cái bánh ngọt và tách nước trà để lên bàn cơ, anh Đàm Quang Yêu mời:
“Chúng tôi mời ma đói ăn bánh uống nước”.
Cơ chạy tới đụng nhẹ vào cái bánh rồi đến chạm vào tách nước, cơ lui lại vị trí chờ. Trong lúc anh Yêu hỏi thêm thì cơ chạy vội vào các mẫu tự, tôi ráp lại: 
“Xin phép các ông tôi đi, vì ông Tiểu Thần vừa đến ngoài cửa. Ông ấy bắt gặp là tôi bị phạt”. 
Trong chớp mắt cơ chạy lại, đó là ông Tiểu Thần: 
“Tôi được phép rồi, các ông cần gì thì nói”.
Tôi hỏi trước: “Tôi tên là Hoa …” 
Cơ cắt ngang bằng cách chạy vào các mẫu tự: 
“Tôi biết tên ông rồi vì tôi nghe các ông bên cạnh gọi tên ông. Ông nói tiếp”. 
“… Tôi có bốn đứa con đi ngoại quốc bằng tàu đã hai tháng nay mà tôi chưa có tin tức. Ông Thọ có thể vào Sài Gòn, đến nhà X12 cư xá Bắc Hải, Phường 25 Quận 10, xem giùm tình trạng ở nhà tôi và cho tôi biết tin tức được không?”
“Được. Ông Hoa chờ một chút”. 
Kho…[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 18:09 by OPLA