Ký sự trong tù

From: OpLa 8 Oct 2018 13:44
To: OpLa 7 of 34
Sau tuần lễ gởi thư đi, chúng tôi nhận được thư nhà. Tuy nội dung thư viết theo bắt buộc, nhưng cũng có một số bạn nhờ “méo mó chữ nghĩa” nên thân nhân cũng đoán được chỗ ở. Đây là đoạn thư méo mó đó: “… Trước khi đi học tập, vì buồn quá nên Anh đi đánh bài. Thua và thiếu nợ chút ít. Cũng may có tía thằng Long, Ông Nội thằng Long là anh Giao già lọm khọm đó, hai người cho Anh mượn trả cho chủ sòng bài. Nếu Em có tiền, ráng mang trả hai ảnh giùm Anh 100 đồng nghe Em. Anh hứa khi học tập về sẽ không bao giờ đánh bài nữa …” 
Thế là cấp Đại Tá “học tập” ở Long Giao được loan truyền từ gia đình này sang gia đình khác trong vùng Sài Gòn Gia Định. Vài tuần sau đó, anh Nguyễn Văn Đương (Đại Tá Biệt Động Quân) được vợ đến thăm nhưng không được gặp, mà cộng sản bằng lòng nhận giỏ thức ăn đưa vào trại cho anh Đương. 
Được thư vợ tôi. Nhìn dòng chữ thân thương trên bao thư, tôi xúc động vô cùng! Tôi biết là vợ tôi và các con chúng tôi mong tin lắm. Thông thường chỉ một ngày vắng nhau về tin tức đã đủ tạo nên không khí lo âu trong gia đình, huống hồ từ hôm tôi rời nhà đến nay đã hơn 3 tháng rồi! Thời gian đó đối với cuộc sống chẳng có nghĩa gì hết, nhưng với vợ chồng tôi trong tình cảnh này quả là nỗi lo nặng trỉu biết bao! Cũng vì sợ cách biệt nhau mà vợ tôi đã khước từ di tản trong đêm 24 tháng 4 năm 1975, sẳn sàng chấp nhận hiểm nguy miễn được sống bên nhau. Do đó, tôi mới xoay sang giải pháp đi Australia ngang qua Singapore ngay sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố trung lập. Vậy mà…, chúng tôi vẫn xa nhau trong mịt mù tin tức! 

Xem xong thư, tất cả anh em chúng tôi hiểu ngay rằng, các bà vợ chúng tôi cũng phải “học tập” cách viết thư cho những ông chồng trong trại tập trung, vì nội dung thư chúng tôi gởi về với thư nhận được từ gia đình, y chang nhau. Xã hội xã hội chủ nghĩa có vẻ như “một cái nhà tù lớn” và mọi người từ trong cái nhà tù lớn đó bị buộc phải suy nghĩ và hành động y chang theo lời dạy của cộng sản vậy đó!
Cơm trưa hôm ấy, trong khi trao đổi những mẫu chuyện ngăn ngắn xoay quanh đợt thư đầu tiên, những tiếng nói vội vã từ ngoài cửa:
“Có tin vui. Có tin vui.”
“Tin gì mà vui?” 
“Anh C Trưởng hội ý bất thường -tức nhận lệnh của Trại- về đến, anh ấy đang gọi các anh B Trưởng họp gấp. Chốc lát sẽ rõ. Đừng hỏi nữa được không?”
Mỗi lần có bất cứ tin tức gì miễn là cứ ởm ờ làm cho mọi người xôn xao, thì mạnh ai người ấy tự hỏi hoặc nêu câu hỏi bâng quơ, cho nên không thể nào nhớ nỗi ai hỏi câu gì mặc dù nhiều người hỏi nhưng chẳng ai trả lời. 
Một lúc sau, anh B Trưởng về đến căn trại mà không cần gọi tập họp gì cả, vì mọi người trong B bao quanh anh rồi. Anh Phụng vẫn từ tốn như thuở nào:
“Lệnh cho anh em mình chuẩn bị “cơ động”. Lát nữa có Trại Trưởng xuống nói chuyện với anh em mình.”
Thế là quá đủ để mọi người nhao nhao lên với những âm thanh rất ư là lộn xộn. Có tiếng anh Bùi Quang Định càu nhàu:
“Lại cơ động! Một lần cơ động lấy củi gần ẹo xương sống rồi, bây giờ cơ động gì nữa đây mấy cha?”
Anh Phụng kéo tôi ra bên ngoài:
“Anh Phước cho biết là mình chuẩn bị “go home”. Anh phải giữ kín nghe chưa vì anh em đồn ầm lên là phiền lắm.”
“Mong là vậy.” Tôi đáp, nhưng vẫn có chút e dè ..
Toàn bộ khu C2 cấp Đại Tá tập họp nghe Trại Trưởng -Đại Úy Xê- thuộc Đoàn 263 đến. Anh ta nói đại ý rằng:
“Các anh sẽ cơ động ngay tối nay đến một trại khác có tiện nghi hơn, vì về lâu về dài thì trại này không đủ điều kiện sinh hoạt cho các anh. Chúc các anh có sức khỏe để học tập tốt mà sớm về với gia đình.” 
Thôi thì mọi người vừa thu dọn vừa mạnh ai người ấy nói, nói cho mình và nói cho cả những anh im lặng suy nghĩ. Một số câu nói kiểu ấy tôi ghi lại sau đây: “Chắc chắn là tụi mình về rồi.”
“Nếu về, sao họ nói là trại kia có tiện nghi hơn?”
“Thì họ sợ mình xôn xao nên họ nói vậy chớ có gì đâu.”
“Chính họ nói vậy mới làm mình xôn xao đó mấy anh ơi!”
“Việt cộng nói hơi nào mà nghe. Ba chục ngày mà bây giờ mấy lần ba chục rồi, vậy mà các cha cứ nghe chúng nó hoài, có mà chết đó.” 
“Nó còn nhốt mình dài dài cho coi. Tôi “đếch” tin tụi nó nữa.”
“Thôi các bạn ơi! Mệt lắm! Chắng ai xác nhận lời nào đúng lời nào sai. Cứ mặc kệ, tới đâu thì tới!”
“Nói vậy thì còn gì nói nữa. Chuyện có ảnh hưởng đến mình thì mình phải nói phải bàn, may ra có câu trả lời hợp lý chớ. Mà nói cho cùng, bàn chuyện với nhau dù trúng hay không trúng cũng góp phần nâng đỡ tinh thần anh em chớ bạn.” 
“Nghĩ gì thì nghĩ, nói gì thì nói, nhưng đừng cãi cọ nhau chẳng đẹp đẽ gì đâu.”
“Ai cãi ai mà ông nói?”
“Không cãi thì thôi”.
“Thực tế chút đi các bạn ơi! Thu dọn mọi thứ cần thiết để có mà dùng nếu như cái số của tụi mình vẫn long đong!”
“Cha nào nói nghe xui xẻo không hà!”
Đại loại những câu chuyện râm ran như vậy, tuy có vẻ bâng quơ nhưng tự nó đã biểu lộ tâm trạng của những người vừa hụt hẫng với thời gian 30 ngày nêu trong cái thông cáo của “Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn - Gia Định”.
Một đêm hạ tuần tháng 10 năm 1975, hoàng hôn phủ xuống, đoàn xe Molotova già nua cũ kỹ từ từ vào cổng trại. Anh em chúng tôi dưới sự hướng dẫn lẫn thúc giục của quân cộng sản, lần lượt lên xe với mớ hành trang lỉnh kỉnh. Lên xong, chung quanh bị phủ kín như lần “cơ động” từ đại học xá Minh Mạng Sài Gòn đến Long Giao này vậy. Khoảng 8 giờ đêm, đoàn xe chầm chậm ra cổng. Vào quốc lộ 1, hướng về Sài Gòn. Sự kiện nhỏ nhoi này làm tăng thêm niềm hi vọng “go home” của anh em chúng tôi. Nhưng …. …

*****
EDITED: 8 Oct 2018 18:18 by OPLA
From: AndyLe (HOASIMTIM.) 8 Oct 2018 13:51
To: OpLa 8 of 34
có 10 chương lận đó
bỏ cái link dô là xong
pdf http://www.vietnamvanhien.org/kysutrongtu.pdf
ông đại tá Hoa, sao nghe nói bên này vẫn có nhiều người ghét, thật khó hiểu 
From: Cssr 8 Oct 2018 15:32
To: AndyLe (HOASIMTIM.) 9 of 34
Cảm ơn em.  Anh đã đọc quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ của ông, bây giờ đọc thêm ký sự này nữa.  Tạm bỏ qua các quan điểm chính trị (và anh cũng không biết quan điểm của bác này), nhưng đọc để biết những diến biến vào giai đoạn đen tối nhất của miền Nam VN.  Nhiều vị cao niên có trí nhớ quá tuyệt vời!
From: AndyLe (HOASIMTIM.) 8 Oct 2018 15:40
To: Cssr 10 of 34
vâng anh

em không quan tâm lắm quan điểm chính trị của tác giả

miễn sao họ chịu khó viết cho mình đọc, và mình cảm thấy họ viết có phần khả tín, đọc để biết thêm là ok rồi, đọc có chọn lọc. Dù rằng em chưa đọc hết các bài của đại tá Phạm Bá Hoa.

Người cao tuổi, chuyện hàng ngày họ có thể quên trước quên sau, chứ chuyện xa tít mù xa xưa họ nhớ đến từng chi tiết nhỏ, đôi khi hứng lên, họ thêm chút mắm muối vô cũng thú vị lắm. 
 
From: Cssr 8 Oct 2018 15:48
To: AndyLe (HOASIMTIM.) 11 of 34
Kệ đi em, chút mắm muối cho thêm phần đậm đà.
From: OpLa 8 Oct 2018 16:27
To: AndyLe (HOASIMTIM.) 12 of 34
Gắn thẳng trong này đọc từ từ, nhiều hãng không cho download attachment hay block một số sites.
From: OpLa 8 Oct 2018 16:35
To: OpLa 13 of 34
- năm -

Trại tập trung Tam Hiệp. 



******
Tổ chức và sinh hoạt.

Ba tiếng đồng hồ sau đó, niềm hi vọng của chúng tôi tắt lịm khi đoàn xe bít bùng vào cổng trại Tam Hiệp, tỉnh Biên Hòa. Trại này nguyên là “trại tù binh cộng sản” nên không xa lạ với những bạn có thời gian phục vụ ở Biên Hòa và vùng lân cận.
Sân trại dưới ánh sáng vàng vọt của những bóng đèn gắn tạm, cho thấy hai cái bàn với mấy cái ghế, và một toán cộng sản đi qua đi lại chỉ chỗ cho xe đậu. Tắt máy. Tại mỗi chiếc hầu như có tiếng thúc giục xuống xe và đứng tại chỗ. Từ giữa sân, một giọng ồm ồm:
“Các anh tập trung trước cái bàn dài này để nghe biên chế. Khẩn trương lên”. 
Những ngày đầu ở trại Long Giao, anh em chúng tôi chẳng ai hiểu nghĩa của chữ “khẩn trương” nên đôi lần bị họ mắng. Dần dần mới hiểu được, hóa ra chữ khẩn trương có nghĩa như chữ nhanh lên hay lẹ lên của người dân Việt Nam Cộng Hòa vậy. Còn chữ “biên chế” có nghĩa như chữ tổ chức của mình. Bởi vì chữ của cộng sản sử dụng không cùng nghĩa với chữ thông dụng trong văn hoá Việt Nam, đã biết vậy cho nên chẳng phải thắc mắc làm chi cho mệt trí.

Chỗ ở. 
Họ đọc danh sách biên chế vào từng “Khối”. Tất cả cấp Đại Tá vào 4 Khối, con số diễn biến từ 92 đến 94 người trong mỗi Khối, và mỗi Khối ở trong hai dãy nhà. Tôi ở trong Khối 2, dọn vào dãy số 3 và 4. Đồ đạc lỉnh kỉnh tạm thời để ngổn ngang, miễn có chỗ nằm ngủ rồi sáng mai dọn dẹp. Lúc ấy là hơn 1 giờ sáng. 
Toàn bộ trại này là loại nhà sườn sắt, lợp tôn, nền tráng xi-măng, vách cũng bằng tôn cách mặt đất khoảng 3 tấc (0.3 mét) cho gió lùa đỡ nóng. Vách nhà này với vách nhà kia cách nhau khoảng 5 thước, giữa đầu hồi của hai dãy cũng một khoảng cách tương tự. Chung quanh mỗi dãy đều có mương thoát nước rất rộng, và khá sâu nhưng khô queo. Khu vực này toàn đất cát nên trời mưa vẫn sạch. 
Cầu tiêu là cái mương dài đủ cho khoảng 20 người ngồi cùng lúc. Cầu tiêu không mái che, cũng không có vách bao bọc chung quanh, chỉ có mấy tấm ván mảnh mai bắt ngang cái mương đủ để ngồi làm cái việc “sản xuất phân bón”, nên khi có lượn gió hây hây đủ làm mát rượi khắp người! Khi “phân bón xã hội chủ nghĩa ưu việt” được thải ra từ những con người không phải công dân xã hội chủ nghĩa đến mức đầy cái mương cầu tiêu, thì trời đất ơi, ruồi nhặng xanh lè, con nào con nấy bằng ngón tay út vì chúng nó ăn thả giàn. No bụng là bay nhỡn nhơ khắp các dãy nhà, và đậu vào bất cứ chỗ nào nó muốn. Khốn nỗi cái mương cầu tiêu đầy ắp phân bón xã hội chủ nghĩa chỉ cách dãy nhà số 3 -nơi tôi ở- khoảng 15 thước, chỉ cần chút gió thoảng là cái “mùi xã hội chủ nghĩa ưu việt” đến kinh tởm đó tràn vào nhà này và những nhà kế cận. 
Những ngày đầu, anh em chúng tôi tưởng chừng không thể sống nỗi với cái không khí khiếp đảm này, nhưng rồi cũng phải quen để mà sống. Chẳng những không thể trốn cái mùi ấy, mà nhiều bạn phải ra ngồi dưới bóng mát của cây trứng cá nhỏ nhoi ở khoảng cách giữa dãy nhà số 3 với cái mương cầu tiêu, để tránh “cái nóng nung người nóng nóng ghê” của vách nhà và mái nhà lợp tôn. Cũng có bạn chấp nhận cái nóng gay gắt để được nằm trong nhà vì lúc ấy mới nằm thong thả được, bởi chỗ nằm của mỗi người được phân chia một cõi không gian bé tí vỏn vẹn 6 tấc (0.6 thước) bề ngang. 
Nấu ăn. Một gian nhà bếp có 6 miệng lò cở chảo đụn (loại chảo có sức chứa 60 lít nước) dành cho 4 Khối nấu ăn. Mỗi Khối tổ chức thành 6 Tổ nhà bếp để tự lo cho Khối mình. Nhà thầu cung cấp cây cao su già nguyên khúc, và rau với cá tươi. Toàn là “cá ngừ”, một loại cá biển có giá trị thấp nhất trong các họ nhà cá. Tôi phụ trách một Tổ trong 6 Tổ nấu bếp của Khối 2. 

Tổ chức nhóm. 
Mỗi Tổ chia ra như sau: Nhóm nấu bếp thì tôi nấu cơm. Anh Nguyễn Ngọc Điệp (Đại Tá bộ binh) chụm củi. Anh Trần Phước Dũ (Đại Tá Hải Quân) nấu thức ăn. Nhóm làm rau gồm 6 anh mà hầu hết là Bác Sĩ Quân Y. Nhóm sau cùng là chẻ củi cao su và cung cấp nước. Ở trại này, nước dùng thong thả chớ không khốn đốn như ở trại Long Giao. 

Phân công. 
(1) Nhóm nấu bếp. Từ mờ sáng, anh em chúng tôi xuống bếp nhóm lửa nấu hai chảo nước sôi (120 lít nước). Khiêng lên hai dãy nhà số 3 và 4 để các bạn có nước chín sử dụng trong ngày. Sáng sớm có nước sôi pha trà, pha cà phê, thậm chí ăn mì gói nữa. 
(2) Nhóm làm rau. Ra ngoài cổng lãnh gạo, rau, và cá ngừ ở Ban Chỉ Huy trại. Nói là ra ngoài cổng chớ thật sự chỉ cách ba lớp hàng rào kẽm gai liền nhau thôi. Sau khi giao cá cho tôi, nhóm này rửa rau xắc rau nếu cần. Rau, thường là trái su le hay bắp cải. Làm xong rau thì giao cho anh Dũ. 
(3) Nhóm chẻ củi. Củi thì chẻ lúc nào cũng được. Lúc làm bếp thì lo cung cấp nước theo nhu cầu của Nhóm Làm Rau và Nhóm Nấu Bếp. Công việc đơn giản so với hai Nhóm kia.
Diễn tiến. Trong khi tôi làm cá mà thông thường là 5 hay 6 con cá ngừ lớn bằng cổ chân, anh Dũ cho 60 lít nước vào chảo chuẩn bị nấu canh. Thường khi tôi làm cá xong, cũng là lúc anh Điệp đâm xong tô muối trộn với một bó hành lá xắc nhỏ và khoảng 100 trái ớt (do chúng tôi trồng) để tôi ướp cá. Phải dùng nhiều hành nhiều ớt để giảm bớt mùi tanh của cá ngừ. Ướp xong để đó, cho rau vào chảo nước đang sôi, cùng lúc cho vào tô muối hột với 100 gram bột ngọt. Thế là chúng tôi có chảo canh, múc ra hai cái chậu thau lớn để sang một bên. Xong món canh, rửa chảo và cho nước vào chảo chuẩn bị nấu cơm. Cứ một thùng gạo là một thùng rưỡi nước, theo tỷ lệ đó mà lường gạo với nước. Trước khi cho gạo vào, tôi nhắc: 
“Cho lửa tối đa nghe anh Điệp”. 

Khi cơm sôi: “Anh Điệp ơi! Bớt lửa 50%”
Lúc ấy anh Điệp kéo lửa ra, anh Dũ dùng lửa đó kho cá. Khi chảo cơm đủ hơi, anh Điệp kéo hết lửa ra ngoài và cứ thế mà chờ cơm chín, cá chín. 

Chia thức ăn. Cơm chia ra hai phần, cá cũng vậy, và toán trực của Khối xuống bếp khiêng về phân chia cho 92 (hay 94) khẩu phần. Chia cơm, canh, cá kho, cũng là vấn đề đôi khi rắc rối chớ hổng phải đơn giản đâu, vì lẽ lúc nào cũng không đủ ăn, nên lỡ tay chia không đều là bị bạn bè phản đối lia lịa! Mỗi người có một dụng cụ đựng cơm, một dụng cụ đựng canh, và một dụng cụ đựng thức ăn mặn. Dụng cụ mà tôi nói ở …[Message Truncated] View full message.
From: OpLa 8 Oct 2018 16:38
To: OpLa 14 of 34
Bị thẩm vấn tại trại Tam Hiêp.
Từ giữa tháng 04/1976, một số các bạn Đại Tá từng phục vụ tại các cơ quan trung ương bị họ gọi đến văn phòng làm việc. Tôi là một trong số đó. Họ dùng chữ “làm việc” nhưng theo tôi thì họ “thẩm vấn”. Hồi tháng 05/1975, khi còn ở Sài Gòn tôi đã bị “làm việc” hai lần. Nhưng theo cách vừa đe vừa vuốt trong từng câu hỏi, thật sự là cuộc thẩm vấn chớ không phải “làm việc” theo cách hiểu rõ nghĩa trắng đen của mình. Họ gọi không liên tục, có khi hai ba ngày liên tiếp, có khi cách vài ngày gọi một lần. Tôi tường thuật một số lần điển hình điều mà họ gọi là làm việc trong khi tôi vẫn khẳng định là bị thẩm vấn. 
Ngày đầu tiên bước vào gian phòng nhỏ hẹp ngay bên ngoài vòng rào kẽm gai, hai tên mặc quân phục thẳng thớm nhưng không mũ mão lon lá gì hết nên chẳng biết họ cấp bậc gì. Một tên có vẻ là trưởng đoàn hỏi tôi:
“Chào anh. Anh có phải là Phạm Bá Hoa không?”
“Đúng. Tôi là Phạm Bá Hoa.”
“Hôm nay chúng tôi bắt đầu làm việc với anh về một số vấn đề.”
“Đây là lần thứ 3 sau ngày 30/4/1975, các anh thẩm vấn tôi. Và tôi sẳn sàng về những điều tôi biết”.
“Có gì đâu mà anh cho là thẩm vấn, chỉ trao đổi với nhau thôi mà.”
“Tôi sẽ cố gắng để hiểu như vậy.”
“Ở căn cứ Long Bình của mấy anh có mấy hầm bí mật? Chính xác là chỗ nào? Và cất giấu những gì trong đó?”
“Khi còn ở Sài Gòn, tôi cũng nhận được câu hỏi tương tự. Và câu trả lời là tôi không biết có hầm hay không có hầm. Đơn giản vì căn cứ Long Bình rộng lớn lắm mà trong đó chỉ có Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận chúng tôi, cùng với một số đơn vị Tiếp Vận đồn trú. Phần rộng lớn còn lại là những cơ sở kinh tế hoạt động. Trong phạm vi các cơ sở của chúng tôi không có hầm bí mật nào cả, ngoại trừ hầm nửa nổi nửa chìm sử dụng tồn trữ hàng cần nhiệt độ thấp như điện trì cho máy truyền tin chẳng hạn. Với lại trong tổ chức Tiếp Vận chúng tôi không có khái niệm về hầm bí mật như trong quân đội các anh.”
“Tôi chắc là trong một căn cứ rộng lớn như vậy phải có hầm bí mật chứ?”
“Tôi quả quyết như vậy, còn anh tin thế nào là tùy anh. Tôi xin nhấn mạnh là các cơ sở của ngành Tiếp Vận chúng tôi chỉ choán một phần đất nhỏ, nên tôi không biết toàn bộ khu vực còn lại.”
Hắn im lặng, chừng như hắn đang tìm hiểu bên trong câu trả lời của tôi có thành thật hay không, hoặc tìm câu khác “oánh” tiếp chăng? Tôi tiếp:
“Tôi nghĩ, bây giờ các anh đã kiểm soát toàn bộ căn cứ Long Bình của chúng tôi thì việc lục soát tìm kiếm có gì khó khăn đâu.”
“Thôi được, chúng tôi sang vấn đề khác. Về vận tải của các anh như thế nào? Đường bộ lẫn đường thủy?”
“Chúng tôi có 5 Liên Đoàn Vận Tải tại 5 Vùng Tiếp Vận, phụ trách vận chuyển trong phạm vi địa phương. Còn từ trung ương đến các Vùng do Liên Đoàn Vận Tải trung ương trách nhiệm. Trong hệ thống tổ chức mỗi Sư Đoàn Lục Quân có một Đại Đội Vận Tải. Hải Quân có Hải Đội Quân Vận Hạm. Và Không Quân có những Phi Đoàn Vận Tải. Ngoài ra chúng tôi còn có các khế ước thuê mướn các công ty dân sự cung cấp phương tiện vận chuyển đường bộ lẫn đường thủy nữa”.
“Khả năng trọng tải chung của các anh là bao nhiêu, kể cả phương tiện dân sự mà các anh thuê mướn?”
“Tôi không nắm dữ kiện này, nhưng mọi nhu cầu vận chuyển các loại hàng tiếp liệu của quân đội chúng tôi đều được cung ứng”.
“Về vận tải biển của các anh?”
“Ngành Tiếp Vận chúng tôi có khả năng vận chuyển dọc theo duyên hải, nhưng không có khả năng viễn dương.”
“Vậy thì vũ khí khí tài mà Mỹ cho các anh đến bằng cách nào?”
“Đơn giản thôi. Hoa Kỳ mướn tàu hàng chở đến cung cấp cho chúng tôi.”
“Có trường hợp nào tàu biển cặp các cảng biển miền Trung không?”
“Có”.
“Ngắn gọn quá vậy. Anh cụ thể hơn cho chúng tôi biết?”
“Thí dụ về đạn dược. Chúng tôi thiết lập kế hoạch bổ sung cho các Vùng Tiếp Vận tại các cảng Cam Ranh, Qui Nhơn, Đà Nẳng, rồi trao cho Hoa Kỳ. Thế là Hoa Kỳ ký khế ước với các công ty vận tải đường biển, và chở hàng giao thẳng các nơi theo yêu cầu của chúng tôi. Bằng cách đó, chúng tôi tiết kiệm được thời gian, chi phí, kho tồn trữ trung gian, và an toàn nữa.”
Đấy là buổi thẩm vấn đầu tiên tại trại Tam Hiệp, và là lần thẩm vấn thứ ba kể từ sau ngày 30/04/1975. Trước khi ra cửa, hắn kêu tôi lại đưa tôi mấy tờ giấy ô vuông (cũng gọi là giấy manh) và nói:
“Anh viết lại những gì anh đã nói với chúng tôi sáng nay. Đồng thời tôi muốn anh vẽ những sơ đồ mô tả sự việc rõ hơn. Anh có một tuần để làm việc này.”
“Anh nói mơ hồ quá. Anh cần sơ đồ gì tôi sẽ vẽ nếu tôi biết.”
“Sơ đồ vận chuyển đường thủy. Sơ đồ các Vùng Tiếp Vận của anh ở đâu?”
“Tôi sẽ vẽ. Bây giờ tôi vào trại được chưa?”
“Được. Anh vào đi.”
Tuần sau, lính gác vào gọi tôi. Vẫn địa điểm cũ. Hai tên cộng sản khác đang chụm đầu vào nhau. Tôi gõ cửa. Họ quay nhìn tôi, một trong hai tên hơi gắt giọng: 
“Anh tên Phạm Bá Hoa phải không?”
“Đúng. Tôi đây.” Tôi cũng có chút gắt giọng với hắn.
Im lặng một lúc. Sau khi hắn xem những trang giấy viết và hai sơ đồ tôi trao khi bước vào, hắn lên tiếng:
“Sao anh nặng lời thế. Bài viết mà anh cho là tờ khai à.”
“Các anh có dùng từ ngữ gì đi nữa thì thực chất nó vẫn là tờ khai mà.”
Tên kia chen vào: 
“Thôi được. Cứ luận bàn cách dùng từ không khéo lại lạc đề. Anh cho chúng tôi biết Tổng Cục Tiếp Vận của anh có cố vấn Mỹ không?”
“Từ cuối năm 1972 về trước thì có, sau đó thì không.”
“Họ đối với các anh như thế nào?”
“Anh có thể nêu câu hỏi rõ nghĩa một chút, vì tôi chưa hiểu ý anh muốn hỏi gì.”
Mặt hắn bắt đầu đỏ lên: “Mỹ chỉ huy các anh phải không?”
“Xin lỗi hai anh nghe. Bộ cố vấn Trung Cộng với cố vấn Liên Xô chỉ huy các anh hay sao mà anh hỏi tôi như vậy?”
Hắn đập tay xuống bàn nhưng không mạnh lắm: 
“Anh trả lời câu hỏi của tôi. Anh phải nghiêm túc trước mặt chúng tôi.”
“Lại xin lỗi hai anh. Tôi nêu câu hỏi một cách đúng đắn. Sở dĩ tôi hỏi lại hai anh vì đây là lần đầu tiên tôi nghe như trong câu hỏi có tính xác định Mỹ chỉ huy chúng tôi. Lạ tai lắm. Tôi trả lời là không. Cố vấn là cố vấn, hoàn toàn không có vấn đề người Mỹ chỉ huy chúng tôi như trên màn ảnh nhỏ mà các anh đã tạo dựng trong các vở kịch và tuồng cải lư…[Message Truncated] View full message.
From: OpLa 8 Oct 2018 16:42
To: OpLa 15 of 34
- sáu - 

Trại tập trung Yên Bái.


*******

Sau hai vòng lượn, phi cơ đáp xuống một đường băng nào đó không bằng phẳng, làm phi cơ nhảy tưng tưng. Phi cơ dừng hẳn. Động cơ tắt. Lại ra lệnh:
“Mọi người ngồi yên tại chỗ chờ mở còng.”


HQPD_1329961632.jpgẤy vậy mà khi xuống phi cơ có một anh (tôi quên tên) vẫn còn cái còng trong tay. Mãi khi những chiếc Molotova lệt bệt tới, họ mới tìm được cái chìa khóa mở còng. Tôi lượm được sợi dây ni-lông dùng cột lạp xưởng: 
“Đúng là mình đến cùng địa điểm với các anh đi trước rồi, sợi dây này đủ chứng minh điều đó.”
“Trên đất Bắc, nhất là ở cái phi trường đèo heo gió hú này làm gì có lạp xưởng.”
Tôi trông thấy 2 chiếc phản lực cơ Mig họ giấu trong rừng chồi bên ngoài phi trường một khoảng cách, đúng là 2 chiếc này tôi đã trông thấy trên một tấm không ảnh hồi cuối năm 1974 do Phòng 2 Tổng Tham Mưu cho xem. Tôi quay sang các bạn:
“Các anh ơi! Chắc chắn là chúng mình đang ở vùng núi trên đất Bắc rồi, vì 2 chiếc Mig này tôi thấy trong không ảnh nhưng không nhớ chính xác nơi đây.”
Anh Luân nói: 
“Tôi là dân Bắc Kỳ chính cống mà cũng chịu. Không biết đây là đâu nữa, vì mấy cây gồi này không nói lên được điều gì hết.”
Mỗi xe 20 người cùng với mớ hành lý ít ỏi. Tất cả ngồi trên đống tài sản của mình vì chỉ có sàn xe chớ không có băng ngồi. Tôi ngồi khoảng giữa xe. Ngoài tên lính cộng sản tài xế, còn có một tên ngồi cạnh, và hai tên nữa ngồi trên tấm bửng xe, một tay vịn mui xe một tay cầm súng hướng vào trong xe. Mui và hai bên hông xe phủ kín mít bằng “tấm bạt”, chỉ còn thấy một mảng trời xanh nho nhỏ xa xa, qua khoảng trống giữa hai tên lính cộng sản ngồi trên bửng sau. Tôi nhìn qua nhìn lại trong cái khoảng không gian bé xíu chỉ là do tò mò chớ thật ra có biết đây là nơi nào đâu. Ấy vậy mà bị một tên quát:
“Anh kia, không được quan sát địa hình.”
“Tôi nhìn ra trước mặt tôi mà.” 
“Anh không được lý luận.”
Tôi vừa cười vừa nhìn sang anh Luân, cũng bị quát: 
“Tại sao anh cười?”
“Anh đâu có cấm tôi cười.” 
Hắn quát to: “Im.” 
Nghĩ sao không biết, đôi mắt hắn xoáy vào tôi, gằn giọng: 
“Bọn ngoan cố.” 
Gần như đám cộng sản này từ cấp lớn xuống đến cấp bé, khi thấy đuối lý thì phun ra hai chữ ngoan cố để bịt miệng kẻ thù trước mặt.
Anh Luân nói khẽ: 
“Nói với mấy thằng chó đẻ này làm mẹ gì cho thêm tức.”
Đoàn xe dừng lại. Chúng tôi từng hai người một, xuống xe. Bên tay phải là thị xã Yên Bái nhưng phút chốc bị che khuất bởi một đám đàn bà và đám “oắt tì” (con nít) kéo đến với thái độ sừng sỏ. Miệng hét tay xỉa xói vào nhóm chúng tôi đang chầm chậm xuống bờ sông để lên phà. Họ đứng cách chúng tôi khoảng chục thước, cùng lúc đến mấy chục cái miệng oan oác:
“Đồ bán nước. Giết hết chúng nó đi.”
“Đồ ăn thịt con nít. Đem bắn hết đi.”
“Bọn giặc lái giết người. Cho nó rục xương trong rừng đi.”
Đám lính cộng sản áp tải chúng tôi có vẻ hài lòng với nụ cười của tụi nó khi thấy đám phụ nữ và trẻ con sỉ vả chúng tôi. Chúng tôi im lặng. Lên phà. Cho dẫu mỗi chúng tôi có suy nghĩ gì đi nữa, tôi nghĩ, cũng đều ngỡ ngàng qua “cú sốc” đầu tiên kể từ ngày thua trận! Nhưng ngay bước đầu trên đất xã hội chủ nghĩa 20 năm, sự kiện vừa qua chứng tỏ cộng sản đã nhồi nhét trong đầu người dân từ bé đến lớn một lòng căm thù chúng tôi không thể nào tưởng tượng đến như vậy. Họ nói chúng tôi ăn thịt con nít! Điều này làm tôi nhớ lại câu hỏi của một tên cộng sản mà anh Nguyễn Kim Sơn giới thiệu là cán bộ, khi anh hướng dẫn đến nhà tôi phỏng vấn có thu hình vào những ngày đầu tháng 5 năm 1975. Hắn hỏi tôi: 
“Anh là Đại Tá, chắc anh giết nhiều con nít lắm mới được quân hàm đó phải không?”
Rõ ràng là từ trong quân ra đến dân và từ già đến trẻ trên cái đất xã hội chủ nghĩa này, chỉ có một cách hiểu một cách nói mà thôi! 
Tiếng anh bạn bên cạnh kéo tôi lại thực tế:
“Đây là phà Ô Lâu trên thượng nguồn Sông Hồng. Ngày trước tôi có qua phà này khi tham gia trận đánh Nghĩa Lộ. Vậy là tụi nó đưa mình vô cánh rừng già phía Nam Yên Bái rồi.”
Phà Ô Lâu, chỉ là chiếc xà-lan có chiếc tàu kéo cặp bên hông đẩy đi. Nó không giống bất cứ chiếc phà nào ở Mỹ Thuận hay Cần Thơ cả. Cũ kỹ già nua mà lỗi thời nữa. Sông Hồng Hà mà tôi học trong sách “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” từ cuối những năm 30, bây giờ mới trông thấy, nhưng là trông thấy trong một tình cảnh hoàn toàn ngoài ý muốn.
Phà vừa cặp bến, anh Vũ Tiến Phúc (Đại Tá Pháo Binh) xin đi cầu (đại tiện) vì đau bụng chịu không nỗi nữa. Tụi nó không cho. Mãi đến khi thấy anh Phúc nắm cái quần đi tới đi lui với dáng vẻ iquýnh quáng vì phân bón xã hội chủ nghĩa ưu việt sắp … ra quần, chúng nó mới cho anh chui vô rừng giải quyết. 
Sang bên kia, đoàn xe lại lăn bánh trên đường liên tỉnh 37. Cuối đường này nối vào đường liên tỉnh 32 đến Nghĩa Lộ, tiếp tục theo hướng tây bắc sẽ đến Lai Châu. Lại có một đám đàn bà con nít “dàn chào” nữa. Họ đứng một bên đường, ném đá vào xe trúng tấm bạt nghe lịch bịch. Khi xe qua khỏi, tôi thấy mấy cái miệng nhóp nhép lia lịa. Họ chửi họ nghe luôn chớ chúng tôi có nghe gì đâu. Nghĩ đến con người trong cái xã hội chủ nghĩa này mà tức cười, nhưng không dám cười. Cười là bị quát mà. Họ chẳng khác những cái máy cát-xét, thu thế nào phát ra thế ấy! 
Khoảng 12 giờ trưa, đoàn xe dừng lại một ngã ba đường đất đá. Nhìn thấy căn trại chỉ là mấy cái nhà ọp ẹp xa xa, có lẽ cũng cả cây số chớ không ít. Ngay ngày đầu tiên trên đất Bắc, chúng tôi phải đội cái nắng oi bức của mùa hè khắc nghiệt so với cái nắng hiền hòa trong Nam. Mọi người tay xách nách mang, mồ hôi nhuễ nhoại. Trông thấy mấy anh mập quá kích thước, mang xách lỉnh kỉnh vừa đi vừa thở một cách nặng nhọc mà áy náy, nhưng giờ phút này có ai tiếp được ai đâu! Nhiều anh phải cả tiếng đồng hồ sau mới lê thê lếch thếch đến trại! Khu vực này ở nam tây nam thị xã Yên Bái khoảng 6 cây số.

Trại nhà ngói.
Ở đây gọi là “trại nhà ngói”. Trại này có một dãy nhà duy nhất lợp ngói. Dài khoảng 20 thước và 6 thước nga…[Message Truncated] View full message.
From: OpLa 8 Oct 2018 16:47
To: OpLa 16 of 34
Ngạc nhiên thứ tư.
Cuối tháng 8 năm 1976, bọn họ cho chúng tôi viết thư về gia đình. Vẫn cái cách hướng dẫn viết thư y chang bài bản như lúc ở trại Long Giao (Long Khánh) với Tam Hiệp (Biên Hòa). Vẫn có sức khỏe tốt, lao động tốt, học tập tốt, gia đình an tâm và chấp hành tốt những lệnh địa phương. Họ cho biết là các địa phương đã thông báo cho các gia đình được gởi quà cứ mỗi ba tháng một lần, với trọng lượng tối đa là 5 kí lô. Hầu hết anh em chúng tôi khi nhận thư gia đình đều có mẫu tin trên báo “Nhân Dân”, mới biết được trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn và Lai Châu có tất cả 82 trại, đánh số mà họ gọi là “hòm thư” từ AH 1 đến AH 82, thuộc Đoàn 776 giam giữ mà họ gọi là “quản lý giáo dục”. Bây giờ thì chúng tôi tin con số đó là thật.
Lần đi chợ thứ nhì cũng dùng đòn khiêng. Lần này sang chợ Yên Bái bằng con đò nhỏ chớ không phải bằng phà. Anh Nghĩa, anh Phán, anh Hồ Văn Thành (Đại Tá Quân Vận), anh Luân, anh Trần Văn Lễ (Đại Tá Quân Tiếp Vụ), và tôi. Yên Bái nhỏ lắm, nhà cửa lụp xụp, không thể gọi là phố xá được. Có một dãy khoảng chục căn bằng gạch, còn lại là nhà tranh. Các cửa hàng rải rác nhưng tất cả có ghi hàng chữ quốc doanh hẳn hòi. Tiệm may thì trên bảng ghi “Cửa hàng đo may”. Bên cạnh có “Cửa hàng bách hóa”, nhưng ôi thôi bên trong chỉ có khoảng chục cái kệ với lơ thơ vài chục mặt hàng, mà là hàng hóa thô kệch quá sức. Bên ngoài nhà chợ có nhà máy đường với cơ sở rất ư là ọp ẹp. Tôi nói nhỏ với anh Phán: “Phán ơi! Chợ gì mà giống trại lính quá.”
“Trông chẳng giống làng xã gì của mình cả.”
“Thị xã Yên Bái xã hội chủ nghĩa, chẳng khác buôn làng của đồng bào Thượng vùng Pleiku Kontum trong những năm 1950!” 
Chuẩn bị đi chợ lần thứ ba. Tên võ trang ra lệnh:
“Các anh đi lấy 2 xe cải tiến. Hôm nay mua cải bắp.”
Tôi nhìn qua nhìn lại có ý tìm xe cải tiến, hắn thấy tôi làm thinh mà cứ nhìn qua nhìn lại, hắn quát:
“Không đi lấy xe mà nhìn gì thế kia?”
“Tôi không thấy xe ở đâu làm sao lấy.” 
“Thế cái gì kia?” Vừa gắt gỏng hắn vừa chỉ chiếc xe cút-kít ở gần chuồng heo bên kia dòng suối. 
“Cái đó là xe cải tiến hả bộ đội?”
Hắn trừng mắt nhìn tôi: 
“Anh đùa à. Xe để đấy mà còn hỏi”.
“Không. Tôi không biết đó là xe cải tiến mà cán bộ”.
“Cái anh này buồn cười chưa. Thế các anh gọi nó là cái gì?”
‘Trong Nam chúng tôi gọi nó là “xe cút kít”. 
“Ra lấy đi, đừng có đứng đó mà lý sự”.
Chúng tôi qua chiếc cầu nhỏ, lôi hai chiếc cút-kít từ trong bờ rào ra. Chưa biết phải làm gì tiếp, hắn lại quát:
“Vào kho mượn giây để kéo. Đứng đó làm gì?”
Hóa ra chuyện như thế này. “Xe cải tiến” là chiếc xe mà những năm 50 người Sài Gòn gọi là xe “cút-kít”, loại xe của những toán sửa đường dùng chở gạch đá lặt vặt. Xe cút-kít bằng kim loại, có một bánh xe ở giữa phía trước, cái thùng xe bầu xuống, hai chân đứng phía sau với hai cái càng để đẩy. Với dạng xe đó được xã hội chủ nghĩa “cải tiến” phía trước có hai bánh xe (thay vì một), cái thùng xe hình chữ nhật (thay vì bầu), phía sau cũng có hai chân đứng, và hai cái càng để đẩy. Vật liệu đều bằng cây với ván. Theo họ nói thì trọng lượng xe khi chở đầy vào khoảng 150 kí lô. Chiếc xe cải tiến vận chuyển được những gì trong cái thùng hình chữ nhật đó, là do 3 “nhân lực” (không phải mã lực) kéo và đẩy. Hai sợi dây cột hai bên cái thùng phía trước cho hai người kéo, một sợi dây khác cột ở hai cái càng sau và người cầm càng máng lên vai cho hai cái chân xe cao khỏi mặt đất, và ra sức đẩy tới. “Xe cải tiến chuyển động bằng ba nhân lực” là như vậy. 
Đến đám bắp cải của hợp tác xã nào đó sát bờ nam Sông Hồng, trông thấy một cô gái mặc quần tây áo sơ-mi, mang giày ống, cổ quấn khăn quàng ấm, tóc uốn dợn phần đuôi. Nhìn chung, cô ta là cô gái sáng sủa so với hai cô gái đang trong rẫy bắp cải. Cô ta giao việc cho hai cô kia đang quần quật chặt gốc bắp cải và mang vào sân nhà lều. Tên võ trang bảo chúng tôi đứng chờ, hắn đến nói chuyện với cô gái mang giày ống chắc là về chuyện mua bán. Hắn trở lại anh em chúng tôi:
“Đấy là con gái của nữ đồng chí lãnh đạo Công An Huyện (Trấn Yên). Người ta đưa bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, cho lên xe cột lại. Các anh cẩn thận, không được nói linh tinh nghe chưa?” 
Nói xong, hắn đi về phía ngôi nhà gần bờ sông. Chẳng hiểu hắn muốn dọa chúng tôi hay ngăn cấm chúng tôi nói chuyện với con gái của Công An quận này? Khi nghe hắn nói cô này là con bà Trưởng Công An cũng hơi ớn, chỉ nghe hai chữ Công An đã cảm thấy lạnh lùng rồi, huống chi là con gái của Trưởng Công An, mà lại là Công An quận nữa chớ. 
Một cô lo cân. Cân xong, cô kia chất sang một bên, lúc ấy có tiếng của cô mang giày ống:
“Yến. Em gở hết những lá xanh bên ngoài rồi cân lại cho mấy anh đó.”
Thế là hai cô gái phụ việc làm lại từ đầu mà chẳng nghe càu nhàu gì cả, trong khi cô gái mang giày ống gọi chúng tôi đến nhận bắp cải. Đang chất bắp cải lên xe, cô ta đứng cạnh tôi: 
“Anh biết dùng lá cải bắp làm dưa ăn không?” 
Tôi dùng chữ bắp cải còn cô ta dùng chữ cải bắp. Thấy cô ta nói chuyện có vẻ nhẹ nhàng và tự nhiên, tôi đáp:
“Có. Tôi biết cách làm và cũng biết ăn nữa cô.”
“Tôi cho các anh những lá này, đem về cắt ra phơi một nắng,nấu nước muối đổ vào. Vài hôm là ăn được.”
“Không được đâu cô.”
“ Anh vừa nói anh ăn được mà?.”
“Cô phải nói với anh bộ đội võ trang mới được. Nếu cô không nói thì anh bộ đội võ trang cho là tôi ăn cắp, tôi sẽ bị phạt giam khi về trại.”
“Được. Tôi sẽ nói cho anh.”
Trong khi chờ tên võ trang trở lại, cô ta hỏi: 
“Quê anh ở đâu?”
“Tôi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mà trong Nam chúng tôi thường gọi là Miền Tây, nhưng tôi sống ở Sài Gòn lâu rồi cô.”
“Anh có thường được thư gia đình không?”
Tôi khựng lại, vì không hiểu cô ta hỏi thật hay dò xét. Con của Trưởng Công An quận mà. Thấy tôi ngập ngừng, cô ta nói:
“Tôi hỏi thật, anh đừng sợ. Tôi có vào Nam rồi. Tôi thấy người miền Nam thành thật mà dễ mến nữa. Tôi nói thật đấy.”
Tôi có phần vững dạ: 
“Vâng. Thỉnh thoảng thôi, vì người ta ấn định thời gian chớ không phải lúc nào cũng được gởi đâu cô.” 
“Lần sau các anh có ra đây, mang theo thư đưa tôi gởi cho. Các anh đừng sợ. Tôi …[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 18:20 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 16:52
To: OpLa 17 of 34
Và cứ như vậy mà đưa nước từ dòng suối nhỏ lên đến bậc thang trên cùng. 
Khi sẳn sàng để cấy, có nghĩa là đất ở mỗi bậc thang tương đối bằng phẳng, chuyền nước lên đủ rồi, phân chuồng đã bón lót xong, lúc ấy anh Trần Thanh Liêm (Đại Tá Quân Tiếp Vụ) là người phụ trách nhổ mạ. Mạ ở đây khi nhổ để cấy, nó cao chỉ khoảng 10 đến 12 phân thôi (0.12m). Trông cây mạ nhỏ nhắn gầy gò đến thảm hại, thì liệu đến mùa “sinh nở” nó cho được bao nhiêu hột lúa? Khi cấy thì tù chính trị chúng tôi không cấy, mà có toán thợ cấy hơn chục đàn bà con gái từ Hợp Tác Xã Việt Cường vào cấy “vần công đổi công”. Bà nhiều tuổi nhất đứng nhìn những bó mạ bé tí xíu, lắc đầu, sau khi nhổ toẹt bãi nước trầu đỏ choét xuống ruộng, bà vừa cười vừa nói:
“Mấy ông tướng nhổ mạ kiểu này làm sao bọn tôi cấy được.” 
Không biết chữ “tướng” mà bà vừa nói, là do quen miệng hay có ý vỗ về an ủi hoặc xách mé gì chúng tôi đây?
Tiếng nhỏ nhẹ của cô gái trẻ:
“Thôi, mình chuẩn bị lại đi, đứng đó mà nói bao giờ mới xong.” 
Thế là cô gái vừa nói vừa tháo các bó mạ ra, xếp từng cọng mạ ngay ngắn gốc ngọn. Trong toán thợ cấy có cô trẻ nhất mà mấy cô trong toán gọi là “thợ cấy chuẩn”. Nhiệm vụ của cô gái này là cấy các đường chuẩn ngang dọc, và các thợ cấy khác theo đó mà cấy sẽ thẳng hàng. Cấy chuẩn xong, cô ta sang mảnh ruộng bậc thang kế tiếp vẫn với nhiệm vụ cấy chuẩn. Thợ cấy, để nắm mạ nhỏ nhắn trên lòng bàn tay trái, trong khi ngón cái của tay phải tách từng nhúm mạ vài ba cọng, và ấn gốc mạ xuống ruộng. Vì cọng mạ nhỏ như vậy nên thợ cấy không dùng “cây nọc cấy” như thợ cấy ở đồng ruộng miền Nam. 
Một tháng sau, quản giáo với võ trang hướng dẫn chúng tôi “làm cỏ sục bùn”. Nghe chúng tôi bàn tán cái công việc lạ tai quá, có vẻ như tên võ trang tưởng chúng tôi nói xiên nói xỏ gì đó nên hắn giải thích với giọng khó ưa:
“Này, đừng có lý luận lôi thôi. Làm cỏ sục bùn là vừa làm cỏ vừa quậy cho bùn lên bồi dưỡng cho cây lúa. Trong bùn có phân đấy. Khẩn trương lên.”
Mỗi người chúng tôi đứng cách nhau 4 hàng lúa tức khoảng một thước, khom người xuống, mười ngón tay thay cho bàn cào lùa xuống bùn đẩy tới kéo lui giữa hai hàng lúa, ngón tay hơi cong lại cào bùn đất lên còn cỏ thì tróc gốc “lăn quay cu đơ” nổi chềnh ềnh trên mặt nước mà chết tức tưởi. 
Trong khi chờ đợi mùa gặt mà họ gọi là “thu hoạch”, Tổ chúng tôi phải vào xã Việt Cường (quận Trấn Yên) trả công cho toán thợ cấy tháng trước, bằng cách đắp đập làm hồ nuôi cá trắm cỏ. Tại sao gọi đắp đập làm hồ? Vùng này núi rừng trùng trùng điệp điệp. Mỗi hai bên triền núi là cái thung lũng, cứ đắp đập chận hai đầu, chỉ cần dành cái cống nhỏ cho dòng nước thượng nguồn vào, và cái đập tràn ở hạ nguồn để thoát bớt, là có cái hồ rồi. 
Cứ sáng đi chiều tối về trên đoạn đường dài cộng chung áng chừng trên dưới 12 cây số. Tổ nhà bếp cử một toán theo nấu ăn tại chỗ. Mỗi người mỗi ngày được Hợp tác Xã cấp cho một kí lô khoai mì sống để ăn thêm lúc giữa trưa mà họ gọi là “bồi dưỡng”. Tôi thấy ông cụ mặc chiếc áo dạ của quân đội Pháp ngày trước, mà lúc học ở Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt tôi được lãnh để mặc lúc canh gác ban đêm. Ông ta cư xử với chúng tôi phải nói là lịch sự, luôn luôn gọi chúng tôi bằng ông. Tôi bắt chuyện:
“Xin lỗi cụ. Cái áo dạ này mặc ấm lắm. Ở đây có bán sao cụ?”
“Không ông ơi! Trước kia tôi là Thượng Sĩ trong quân đội Pháp, tôi giữ cho đến bây giờ đấy. Gia đình tôi cùng nhiều gia đình trong quân đội Pháp ở lại sau Hiệp Định 1954, đều bị chỉ định cư trú vùng này từ năm 1955. Tôi ở Thái Bình chứ có phải quê quán nơi đây đâu.” 
“Số gia đình chỉ định cư trú ở đây đông không cụ?” 
“Vùng xã Việt Cường này hình thành là do các gia đình bị chỉ định cư trú đấy.”
“Trước khi đến đây, họ có bắt cụ đi cải tạo như chúng tôi không?”
“Không. Vì tôi là Hạ Sĩ Quan. Còn Sĩ Quan thì họ bắt đi hết. Có người cũng đến hai ba năm mới về. Mấy ông bao lâu rồi?”
“Gần 2 năm rồi cụ.”
“Họ có nói với mấy ông thời hạn bao lâu không?”
“Khi thông cáo gọi đi học tập cải tạo họ bảo chuẩn bị cho 30 ngày. Sau 12 lần 30 ngày, họ bắt học tập chính sách cải tạo thời hạn 3 năm, nhưng mù mờ lắm cụ ơi!”
“Mấy ông tin họ là chết đấy. Tôi chỉ khuyên mấy ông một điều là phải giữ sức khỏe, chớ để bỏ xác ở cái xó rừng này như chúng tôi. Không ai thương mấy ông đâu, chỉ có mấy ông thương mấy ông thôi. Đừngbao giờ nghe hai chữ nhân đạo họ nói”.
“Cám ơn cụ rất nhiều.”
Trông thấy tên quản giáo lù lù đến, tôi nói to cho hắn nghe:
“Cụ ơi! Cụ nói là các cô ấy lột võ khoai và luộc giùm chúng tôi phải không cụ?”
“Phải. Mỗi ngày chúng nó làm giúp mấy ông vì bếp mấy ông có hai người làm sao kịp. Chúng nó là thợ cấy ra cấy vần công cho mấy ông đó.”
“Kia rồi. Cô gái áo trắng chính là cô thợ cấy chuẩn, phải không cụ? Nhanh tay mà lại thẳng hàng nữa.”
“Nó giỏi nhất của Hợp Tác Xã này đó ông.”
Tên quản giáo -Trung Úy Bật- hướng dẫn việc:
“Các anh vạt triền núi kéo đất ra đắp đập, còn hai bên má đập sẽ có trâu của Hợp Tác Xã ra “đầm”. Ngoài dụng cụ mang theo từ trại, Hợp Tác Xã sẽ cho mượn ván để làm bàn trang kéo đất. Tất cả dụng cụ để lại tại chỗ trước khi về trại. Bây giờ các anh tổ chức công việc mà tiến hành.” 
Chúng tôi chia ra: Toán xén đất triền núi, toán dùng bàn trang kéo đất ra mặt đập, toán dùng cuốc san bằng mặt đập. “Bàn trang”, là một tấm ván dầy một chút để dùng được lâu, kích thước ngang 0.4m dài 0.8m. Hai bên hông đóng hai cây đinh lớn để cột dây, và đầu dây cột vào thanh gỗ tròn do hai người kéo từ phía trước, trong khi người thứ ba từ phía sau, cầm thanh gỗ đóng chặt vào tấm ván để dựng đứng bàn trang lên. Thế là một lượng đất bị cái mặt bằng của tấm ván mà họ gọi là bàn trang đẩy đi. Cứ như thế mà ngày này sang ngày khác trong ba tuần liên tiếp, chúng tôi làm xong cái hồ cho Hợp Tác Xã vừa nuôi cá vừa có nguồn nước tưới cho vùng này. 
Trong thời gian đắp đập, chúng tôi thêm một lần trông thấy bản chất dã man của mấy tên gọi là cán bộ. Chuyện về con chó của tên quản giáo. Một hôm trong lúc giải lao giữa buổi, anh Nguyễn Văn Kim (Đại Tá Tổng Nha Tài Chánh & Thanh Tra Quân Phí) trông thấy tên quản giáo bắt con chó của hắn đem làm thịt. Anh nói:
“Con chó hắn …[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 18:21 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 16:54
To: OpLa 18 of 34
Cũng xã hội chủ nghĩa có cái chính sách rất ư kỳ lạ. Họ cưỡng bách phụ nữ phải đi làm, bằng cách chỉ cho các con của người mẹ có đi làm mới được hưởng quyền lợi dù hết sức nhỏ nhoi. Nếu trong gia đình chỉ có người chồng đi làm còn vợ ở nhà, thì các con của gia đình này không có chút quyền lợi gì trong cuộc sống cả. Nói rõ hơn là những đứa con đó không có tiêu chuẩn gạo hằng tháng. Trong một xã hội mà người dân chỉ biết có gạo với gạo, còn gì mà nói nữa! Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, từ trước cho đến năm 1977 là như vậy đó! Đến năm 1986, càng tệ hơn nữa. Lúc ấy người dân xã hội chủ nghĩa sắp ngã quỵ, đảng cộng sản sắp sụp đổ, họ mới buộc lòng phải thay đổi nhưng là chỉ thay đổi kinh tế để làm giàu riêng tư chớ không thay đổi chính trị vì họ sợ mất độc quyền lãnh đạo. 
Cũng nói thêm rằng, những năm 50 khi nắm quyền cai trị nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ông Hồ khoe cái chính sách mà ông gọi là “giải phóng phụ nữ”, nhưng thực tế người phụ nữ bị cưỡng bách đi làm như nói ở trên. Chưa hết, khi lao động mà cần đến đến sự vận chuyển, thì ngày trước phụ nữ dùng cái đòn gánh trên vai để gánh hai cái thúng hay thùng ở hai đầu đòn gánh. Ông Hồ giải phóng phụ nữ bằng cách dùng ba người phụ nữ đẩy cái xe cải tiến với trọng lượng 150 kí lô. Nghĩa là ông Hồ không cho gánh nữa mà là đẩy xe để chuyên chở trọng ượng nhiều hơn gánh. Nói rõ hơn, người phụ nữ phải làm việc nặng nhọc hơn! Chính sách giải phóng phụ nữ của ông Hồ là như vậy đó! 
Nói đến giải phóng phụ nữ, không thể quên sự đóng góp quan trọng của những nhà văn trong “Nhóm Tự Lực Văn Đoàn” thời những năm 30-50, đã hướng dẫn xã hội thời ấy trong cuộc vận động đưa thành phần nữ giới bị xã hội phong kiến cột chặt trong khung cảnh gia đình từ ngày xưa, bước chân vào xã hội với những công việc như nam giới. Và đã thành công ngoạn mục. Nếu phải dùng chữ “giải phóng” thì đó mới thật sự là giải phóng. 
Hồ Chí Minh là một người lãnh đạo, say mê trong việc dùng những nhóm chữ rất kêu, rất văn chương thường gọi là “mỹ từ” nhưng thật sự là trống rỗng. Nghĩ cho cùng, cái cách đó lại giúp ông nắm cổ được những cấp dưới ông vì thời đó có mấy người có học đâu. Lác đác cũng có đảng viên có học, nhưng họ nghe lời bác của họ như những kẻ ngông cuồng điên dại. Chẳng những thế, họ cứ theo lời họ Hồ “dạy” rồi truyền khắp dân gian phải nghe theo. Lần hồi họ thần thánh hóa và truyền tụng cho những thế hệ kế tiếp cộng với nền giáo dục một chiều, kết quả là những thế hệ khi ra khỏi hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa, chỉ biết nghe những lời của ông truyền lại cứ như nghe “lời phán của thánh”. Mãi đến nay, chẳng mấy người trong số họ, dám đụng đến ông thánh của họ, mà thật ra “ông thánh” của họ chỉ là một con người ăn cắp văn, một con người ăn cắp tình, một con người gian trá quỷ quyệt trong lãnh đạo. Nói chung, họ Hồ là một người cộng sản mà khi đã là cộng sản thì không còn nhân cách con người bình thường trong xã hội, và khi con người không còn nhân cách thì con người đó còn gì để nói. 

Trở lại cái việc đắp đập. Anh em chúng tôi trong hai Tổ này đã hai ba lần đắp đập nên tổ chức công việc nhanh lắm. Sau đó, cứ phá triền núi, kéo đất đổ xuống đường thông thủy ngăn dần dòng nước thượng lưu. Đào một đường bên cạnh đập gọi là đập tràn, để khi mực nước cao quá thì nước theo đường đó đổ xuống hạ lưu. Khi muốn bắt cá cứ cuốc giữa mặt đập mà xả nước. Bắt cá xong, muốn nuôi cá nữa thì đắp phần giữa mặt đập lại là có cái hồ như trước. Họ không làm cống để tháo nước, mà khoa học kỹ thuật của họ trong đắp đập nuôi cá là như vậy.
Nguồn nước dùng cho mọi nhu cầu của “cư dân trong ngưu ốc” bất đắc dĩ này là dòng suối nhỏ, cách chuồng trâu chúng tôi ở khoảng 100 thước. Nước thì có nhưng đục lắm, vì phía trên có chỗ cho trâu bò qua lại hai bên bờ. Đục thì đục, có nước dùng là may rồi. Mỗi chiều sau khi tắm giặt xong, nói nghe ngon lành lắm nhưng thật sự chỉ là qua loa thôi vì trời lạnh mà nước suối càng lạnh hơn. Nhóm “ca nhạc sĩ bất đắc dĩ” chúng tôi tập hát để “trình diễn” trong đêm Giao Thừa: Anh Nguyễn Thành Trí (Đại Tá, Thủy Quân Lục Chiến), anh Nguyễn Quang Chiểu (Đại Tá Bộ Binh), anh Nguyễn Phán (Đại Tá, Quân Đoàn 2), anh Nguyễn Thiều (Đại Tá Bộ Binh), và tôi. Anh Trí sáng tác bài “Đâu Cũng Là Quê Hương”. Tôi nói “bất đắc dĩ”, vì bộ chỉ huy trại bảo tù chính trị chúng tôi tổ chức ca hát mừng Xuân. 
Trời lạnh nhưng vẫn phải tập, vì khi về đến trại là đêm Giao Thừa rồi, bây giờ không tập thì không có thì giờ nào khác. Còn nếu không tổ chức ca hát mừng Xuân, không khéo lại bị bọn họ chụp cho cái mũ “chống đối cải tạo” hay “lấy nạng chống trời” là lắm thứ rắc rối. Không ngờ khi tập hát, dân trong làng nhất là đám con nít với những cô gái tuổi choai choai, kéo nhau đến xem đông lắm. Trông cũng hay hay với những “khán giả măng non” này.
Một tuần trôi qua, dưới cái lạnh đậm đà của ngày cuối năm âm lịch, chúng tôi giã từ “ngưu ốc”, nơi mà có muốn hay không muốn, cũng để lại trong chúng tôi những buổi chiều khó quên trong cuộc sống của người tù chính trị trong tay cộng sản. Về đến trại, tắm giặt, cơm xong là chuẩn bị vào chương trình “văn nghệ Giao Thừa”. 

Tù trình diễn tù xem. Nhưng cũng có một số quản giáo với võ trang ngồi xem từ đầu đến cuối. Sau phần văn nghệ đầu là màn Táo Quân. Các vai:
Ngọc Hoàng Thượng Đế: Anh Phạm Duy Khang (Đại Tá Bộ Binh).
Nam Tào Bắc Đẩu: Anh Huỳnh Minh Quang (Đại Tá Không Quân) với một anh nữa mà tôi quên tên.
Táo Trại 2: Anh Nguyễn Ngọc Sáu (Đại Tá Pháo Binh).
Trại Cốc là tên gọi lúc tất cả chúng tôi mới chuyến đến, về sau khi tách một nửa sang Trại 3 thì trại chúng tôi gọi là Trại 2.
Màn này bắt đầu với hoạt cảnh Táo Trại 2 đội một bó củi vào thiên đình, áo quần xốc xếch. Táo quỳ xuống xin lỗi Ngọc Hoàng đến trễ, vì phải lên núi lấy củi cho nhà bếp. Ngọc Hoàng cảm động quá nên tha lỗi. Táo Trại 2 móc cái sớ bèo nhèo trong túi ra, rồi bắt đầu đọc. Trong sớ có đoạn than phiền vấn đề lao động vất vả nhưng ăn không đủ no, đau ốm không thuốc uống, ..v..v.. Hai ông Nam Tào Bắc Đẩu mũi lòng, bèn lên tiếng ủng hộ Táo Trại 2 bằng cách cường điệu thêm khi tâu với Ngọc Hoàng. Thế là Ngọc Hoàng Thượng Đế Phạm Duy Khang nổi trận lôi đình, ra lệnh cho Trại 2 phải sửa sai. Tù chính t…[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 18:03 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 16:56
To: OpLa 19 of 34
RX là gì? 

Chiều ngày 1 tháng 9 năm 1978, trong lúc Đội 29 với 30 chúng tôi ngồi viết khai báo trong câu lạc bộ gần loa phóng thanh. Thường ngày loa này không được mở, nhưng chiều nay bỗng dưng chúng tôi “bị nghe” chương trình truyền thanh chuẩn bị cho ngày mai -2 tháng 9- lễ độc lập của chúng. Trong bài diễn văn dài lê thê của ông Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, có một đoạn ngắn cuốn hút anh em chúng tôi đến mức đều ngưng viết. Đó là vấn đề tù chính trị chúng tôi, ông ta thẳng thừng rằng:
“… Bọn ngụy quân ngụy quyền và đảng phái phản động là bọn đã gây tội ác tầy trời, ta không thể tha thứ cho chúng …” 
Lúc ấy không có tên cán bộ nào có mặt, có lẽ chúng chuẩn bị về nhà sớm. Vì vậy mà điều đầu tiên là chúng tôi xúi hai anh Đội Trưởng xin về sớm với lý do viện dẫn ngày mai nghỉ lễ. Rồi cùng nhau tụm năm tụm ba bàn luận suy đoán với bao nhiêu là hình ảnh được vẽ ra và chồng lên nhau bắt nguồn từ lời tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng, tên cộng sản mà năm 1958 đã chan1h thức công nhận các đảo và quần đảo vùng Biển Đông thuộc về Trung Hoa cộng sản. Chúng tôi trông chờ vào bài diễn văn của ông Thủ Tướng cộng sản hôm nay, vì nghe chừng sẽ có quyết định liên quan đến tù chính trị. Thế nhưng qua lời của ông Đồng vừa rồi, đúng là ông ta có nói đến chúng tôi, nhưng điều mà ông ta nói chắng khác thùng nước lạnh tạt vào anh em chúng tôi choáng váng đến tối tăm mặt mũi!
Sau bữa ăn bo-bo chiều, cửa buồng giam đóng rầm một cái, tiếng click khô khan của cái ống khóa vừa bấm lại, từng nhóm anh em chúng tôi tiếp tục bàn luận chung quanh lời tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng lúc trưa. Một bạn trong nhóm chúng tôi ở cuối góc phòng mở đầu với câu ngắn mà không ai hiểu: 
“Vậy là RX rồi”. 
“RX là gì vậy cha nội?”
“RX là rục xương chớ là gì nữa! Rõ vớ vẫn”.
“Đấy. Các anh tin vào cái gọi là khoan hồng nhân đạo của chúng nó nữa đi. Nó lừa được bọn mình vô tù rồi nó nói huỵch toẹt ra đấy”.
“Thôi. Nóng làm chi bạn ơi! Thế bạn có tin cái chính sách 10 điểm của họ hay không mà bạn ngồi đây?”
“Tôi thì khác”.
“Cứ cho là bạn khác với bọn tôi, nhưng nhìn lại thì chúng mình cũng thế thôi bạn à! Là tù thua trận cả mà. Nặng nhẹ xách mé làm chi cho đau lòng nhau!”
“Tôi xin các anh cứ mặc cha nó! Cái quan trọng là mình phải vững tin rằng, chúng mình sẽ được ra khỏi trại tập trung dù chưa biết là sẽ ra như thế nào. Thế giới, nhất là Hoa Kỳ, vẫn xem Việt Nam là một vấn đề thì ta vẫn còn hy vọng mà. Bây giờ, vấn đề của chúng ta là giữ vững nghị lực để đừng bỏ xác trong nhà tù cộng sản. Thế thôi”. 
“Các anh ơi! Khi bước vào hoạt động chính trị, người ta buộc phải sử dụng ngôn từ của chính trị, cái thứ ngôn ngữ không nhất thiết 1 với 1 là 2 đâu. Nhất là chính trị trong cái quốc gia nghèo giữa một thế giới cạnh tranh nhau vì quyền lợi thì sự ổn định khó mà có được, nếu không nói là ảo tưởng. Trong một quốc gia không có khả năng độc lập kinh tế như Việt Nam thì đừng hòng có độc lập chính trị. Với lại, những nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam, được chọn từ thành phần 3 đời bần cố nông để đại diện công nhân nông dân thì họ có học hành gì đâu. Khi lãnh đạo mà không có kiến thức thì đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa càng ngày càng xuống vực thẳm là điều hiển nhiên. Rõ ràng nhất là cái nhóm lãnh đạo loại ấy lúc nào cũng vỗ ngực lớn tiếng bảo vệ đất nước cả”.
“Thằng cộng sản nó đếch cần đến kiến thức mà chỉ cần lưu manh để nắm quyền cả đời đấy. Cho nên chẳng phải riêng chúng mình, mà là cả dân tộc cứ như bị nhốt trong cái nhà tù bằng cả một quốc gia ấy”. 
“Như Trung cộng thôi. Chúng nó định nhốt các Tướng Lãnh của Đài Loan đến rục xương trong tù, thế nhưng mới bước đầu chấp nhận ảnh hưởng của Hoa Kỳ là chúng nó thả các ông ấy về Đài Loan sau 26 năm trong tù đấy”. 
“Thôi các bạn ơi! Làm ơn ngưng lại để ngủ cho có sức để mai còn khai báo tiếp. Không xong là chúng nó mắng đến phát tức bạn à!” 
Nằm cạnh tôi, bên phải là anh Ngô Văn Huế (Công Binh). Anh nói nho nhỏ:
“Hồi đi trình diện, tôi ước tính ít nhất cũng phải 5 năm chớ tôi không tin là 30 ngày, vì cộng sản từng chà đạp Hiệp Định Genève 1954 và Hiệp Định Paris 1973 thì còn chỗ nào để mà tin nó”.
Tôi tiếp lời cũng nho nhỏ như vậy:
“Thật ra đâu có ai trong chúng ta dám nghĩ là đến một lúc nào, chúng ta sẽ là nguồn lợi cho cộng sản, như sự kiện Cu Ba đã từng thả tù chính trị sang Mỹ để đổi lấy máy cày nông nghiệp đó. Trong chính trị việc gì cũng có thể xảy ra cả. Nói rõ hơn, điều mà tôi hy vọng là chúng mình sẽ ra khỏi nhà tù bắt nguồn từ phía Hoa Kỳ, và biết đâu Hoa Kỳ sẽ đổi chúng ta bằng cách cấp cho chúng nó (cộng sản Việt Nam) những thứ gì đó cũng nên.” 
Anh Nguyễn Xuân Hường (Thiết Giáp) nằm bên trái tôi: 
“Bây giờ tôi không còn tin bất cứ điều gì chúng nó nói cả. Tôi đồng ý là mình phải giữ vững nghị lực để sống, còn việc gì sẽ tới phải tới”.

Lại khai báo. 

Toàn bộ những bản khai báo của từng người phải đóng lại thành tập. Chúng bảo bên ngoài phải ghi “Cuộc Đời Tôi”. Tập khai báo dày hay mỏng là tùy theo từng người viết, nhưng dưới 200 trang là bị chúng nó mắng nhiếc, hay ít ra cũng lời nặng tiếng nhẹ vì cho rằng chưa thành thật khai báo.
Khai báo bản thân xong tưởng là yên thân, nhưng đâu dễ dàng vậy. Vì đám Công An từ Hà Nội lại xuống hướng dẫn khai báo tập thể. Nói cho đúng là “tập thể khai báo về những Tướng Lãnh của mình”. Nói theo ngôn ngữ giang hồ là chúng nó bắt chúng tôi “bề hội đồng” Tướng Lãnh của mình đó. Tất cả tù chính trị cấp Đại Tá từ Yên Bái xuống đây, chúng nó bảo chia thành 3 nhóm: Nhóm Quân Khu 1 + 2. Nhóm Quân Khu 3 + Biệt Khu Thủ Đô + Trung Ương. Và nhóm Quân Khu 4. Chúng nó hướng dẫn chọn như thế này: Không căn cứ vào thời gian sau cùng phục vụ ở đâu, mà căn cứ vào những vị Tướng Lãnh từng là cấp chỉ huy của mình để chọn nhóm. Thật ra anh em chúng tôi ráp lại theo nhóm là do ý thích, vì đã là Đại Tá thì không dưới quyền vị này cũng dưới quyền vị khác. Do đó việc tham gia vào nhóm là do chúng tôi thỏa thuận với nhau chớ chúng nó có biết gì đâu. 
Tôi chọn vào nhóm Quân Khu 4, dù rằng thời gian tôi phục vụ ở Bộ Tổng Tham Mưu lâu hơn các nơi khác. Mỗi người chọn những vị Tướng mà mình đã phục vụ hoặc mình biết, cuố…[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 18:06 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 16:58
To: OpLa 20 of 34
Cộng sản nuôi tù. 

Trại tập trung này thường xuyên là ăn độn, nhưng độn theo lương thực thì từng đợt vài ba tuần hay vài ba tháng. Chẳng hạn như bo-bo thì thời gian dài hơn, khoai mì xắc từng cọng phơi khô thì vài tuần, khoai tây tươi nguyên củ thì theo mùa, bột mì luộc thì tùy theo viện trợ từ ngoại quốc. Nói là độn nhưng thật sự ăn 100% chớ không phải một phần gạo một phần độn đâu. Bo-bo là thức ăn dành cho ngựa ngoại quốc, cọng khoai mì phơi khô là thức ăn dành cho heo trong nước, nếu nói cho văn chương một chút gọi là thức ăn dành cho gia súc. Vì là thức ăn dành cho những động vật không phải con người, nên người ta không cần giữ vệ sinh từ lúc sản xuất, tồn trữ, chuyển vận, đến cung cấp cho bếp trại. Nghĩa là trong tình trạng không sạch sẽ chút nào, vì khi đổ ra sân người ta dùng bàn cào hay chổi để trải ra phơi hay gom lại cho vào bao. Hãy hình dung bữa ăn với cọng khoai mì khô đã nấu chín. Mỗi khẩu phần từ 10 đến 12 cọng, nhỏ thì bằng ngón tay út còn lớn thì bằng ngón tay cái, và dài nhất cũng khoảng 12 phân tây (0.12 thước). Bên cạnh những cọng khoai mì nhơn nhớt, là muỗng nước muối với khoảng mười cọng rau mùa hè (rau muống) hay rau mùa đông (bắp cải, su hào). Đấy là một phần ăn. 
Trong số những thứ lương thực thay gạo đó, bo-bo là tai hại nhất, vì cái võ lụa của nó không tiêu được, nên nó phải “cào” những gì vướng mắc trên đường đi từ cái bao tử ra đến cái thùng gỗ đựng nó, chờ khiêng xuống khu vực trồng rau để “chăm bón”. Cuối cùng, nó lại quay vòng trở vào bao tử chúng tôi dưới dạng rauCó bạn dùng cây tăm xỉa răng, ghim từng hột bo bo cho vào miệng. Cách ăn này vừa nhai thật kỷ, vừa đánh lừa cái bao tử làm cho “nó” tưởng là được ăn nhiều! 

Năm 1978-1979, tôi với anh Nguyễn Tài Lâm ăn chung. Tuy bo-bo “nó hung hăng” như vậy, nhưng hai chúng tôi cứ trông đến ngày thứ bảy nhờ anh Sét -em rể anh Lâm- ở buồng giam khác, mua giùm một phần bo-bo với giá một đồng. Hai đứa chia nhau mỗi người một nửa, giúp cái bao tử đỡ phần lỏng lẽo! Theo lời anh Sét thì anh bạn muốn có một phần bo-bo bán cho chúng tôi, mỗi chiều anh ấy để lại một muỗng. Ngày thứ hai để lại hai muỗng từ phần bo-bo mới lãnh và gộp muỗng bo-bo của ngày thứ nhất vào phần ăn lúc ấy. Ngày thứ ba để lại ba muỗng và gộp hai muỗng của ngày thứ hai vào phần ăn lúc ấy. Và cứ như thế cho đến ngày thứ bảy là đủ một phần, anh ấy bán cho chúng tôi lấy tiền lén gởi mua thuốc lào hút.
Bây giờ quí vị quí bạn hãy hình dung thời gian tại trại tập trung Nam Hà vào chiều Ba Mươi Tết Nguyên Đán đầu năm 1979. Nhà bếp phát cho mỗi người tù chúng tôi một cái bánh chưn, mỗi cạnh 15 phân tây kể cả lớp lá dông thật dày bên ngoài. Tôi với anh Lâm phác thảo “kế hoạch” ăn hai cái bánh chưn đó. Chiều Ba Mươi ăn cái bánh của tôi, và sáng Mồng Một ăn cái bánh chưn của anh Lâm. Chúng tôi nhẹ nhàng cắt dây, rồi từ từ gở từng miếng lá nhỏ cứ như sợ nó văng mất từng hột nếp hay miếng thịt nho nhỏ bên trong ấy, và … trời đất ơi, một nửa cái bánh còn nguyên hột nếp! Nếu có bạn nào trông thấy hai cái mặt chúng tôi lúc ấy, cũng không thể nào tưởng tượng cái bao tử của chúng tôi nó thất vọng đến như vậy!

Cầu cơ. 

Nhóm anh em chúng tôi gồm các anh Cao Văn Phước, Ngô Văn Huế, Vũ Tiến Phúc, Cao Nguyên Khoa, Phạm Duy Khang, anh Đàm Quang Yêu, và tôi, bắt đầu chơi “cơ” sau khi vào buồng giam, thường gọi là “cầu cơ”. Thỉnh thoảng có thêm anh Nguyễn Kỳ Nguyện và anh Đặng Văn Hậu. “Cầu cơ” cần có cái bàn và con cơ. “Cơ” phải là mảnh ván hòm (quan tài) lấy từ cái huyệt mà thân nhân họ đã hốt cốt mới “linh thiêng”. Một hôm anh Khang trong nhóm đào ao nuôi cá dưới đồng, lượm được một mảnh ván mà anh nghĩ là “ván hòm”, đem về cắt gọt theo hình dáng cái cơ. “Bàn cơ” là mảnh giấy có viết đủ các mẫu tự Việt Nam, một hàng số từ 0 đến 9. Ngoài ra còn viết nguyên chữ đúng/sai, có/không, tốt/xấu để đỡ phải ráp các mẫu tự. Chúng tôi dùng hai cái mền treo lên để tạo thành cái phòng kín, tránh sự rình rập của đám Công An tuần tiểu từ cửa sổ nhìn vào. Chúng nó bắt gặp cũng phiền phức lắm. 
Hôm đầu tiên, anh Khang “ngồi cơ”, anh Yêu khấn vái gọi hồn. Đại khái thì anh giới thiệu với hồn ma hồn quỷ rằng: 
“Chúng tôi là tù chính trị miền Nam, bị giam tại trại tập trung Nam Hà này, xin thỉnh hồn các vị khuất mặt khuất mày nào đi ngang đây, vui lòng nhập cơ để chúng tôi nhờ giúp đỡ độ trì”. 
Anh Phước khều tôi: “Ê! Cơ chạy rồi kìa”.
Nhưng cơ lại ngừng. Một lúc sau thì cơ chạy lại, tức là có hồn nào đó nhập vô rồi. Anh Yêu lại lâm râm khấn vái: 
“Vị khuất mặt khuất mày nào đã nhập vô cơ xin nhập luôn chớ đừng ngập ngừng, để anh em chúng tôi hỏi đôi điều”.
Tôi phụ trách ráp các mẫu tự mà cơ chỉ vào, và có câu sau đây:
“Tôi tên Thọ, Tiểu Thần phụ trách khu này. Trước kia tôi là công nhân nhà máy dệt Nam Định, chết vì không có thuốc trị dạ dày (bao tử). Hiện tôi còn một vợ và bốn con ở tại Nam Định” (có cho số nhà và tên đường). 
“Chúng tôi có thể nhờ ông Thọ cho biết tin tức gia đình ở Sài Gòn được không?”
“Được. Nhưng chờ tôi xin phép Thổ Thần trước”.
Cơ ngưng chạy. Trong tích tắc thì chạy lại, nhưng là hồn khác:
“Tôi tên Ban, tù hình sự, đã chết vì đói tại Trại Mễ ở Phủ Lý. Hiện tôi là “ma đói”. Các ông có gì cho tôi ăn không”.
Tôi lấy cái bánh ngọt và tách nước trà để lên bàn cơ, anh Đàm Quang Yêu mời:
“Chúng tôi mời ma đói ăn bánh uống nước”.
Cơ chạy tới đụng nhẹ vào cái bánh rồi đến chạm vào tách nước, cơ lui lại vị trí chờ. Trong lúc anh Yêu hỏi thêm thì cơ chạy vội vào các mẫu tự, tôi ráp lại: 
“Xin phép các ông tôi đi, vì ông Tiểu Thần vừa đến ngoài cửa. Ông ấy bắt gặp là tôi bị phạt”. 
Trong chớp mắt cơ chạy lại, đó là ông Tiểu Thần: 
“Tôi được phép rồi, các ông cần gì thì nói”.
Tôi hỏi trước: “Tôi tên là Hoa …” 
Cơ cắt ngang bằng cách chạy vào các mẫu tự: 
“Tôi biết tên ông rồi vì tôi nghe các ông bên cạnh gọi tên ông. Ông nói tiếp”. 
“… Tôi có bốn đứa con đi ngoại quốc bằng tàu đã hai tháng nay mà tôi chưa có tin tức. Ông Thọ có thể vào Sài Gòn, đến nhà X12 cư xá Bắc Hải, Phường 25 Quận 10, xem giùm tình trạng ở nhà tôi và cho tôi biết tin tức được không?”
“Được. Ông Hoa chờ một chút”. 
Kho…[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 18:09 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 17:00
To: OpLa 21 of 34
Chuyển tiền vào trại. 

Nói đến chuyển tiền vào trại, mời quí vị quí bạn quay trở lại thời gian Đội chúng tôi làm công tác vệ sinh khu vực cơ quan của trại. Hết làm cỏ lại sửa lối đi, xoay qua san bằng sân bóng chuyền. Làm cỏ xong đến cuối khu vực thì đầu khu vực cỏ đã lên cao, và cứ như thế. Trong thời gian công tác linh tinh ở đây mới biết thêm cách chuyển tiền từ nhà thăm nuôi vào trại tù. Chuyện như thế này: Công An “cái” tên Thanh mà một số anh em chúng tôi gọi là “Thanh hai hàng”, vì dáng đi của cô ta “không phải một hàng”. Cô ta phụ trách hướng dẫn anh em chúng tôi thăm nuôi, là một trong những “cai tù” chuyển tiền vào cho chúng tôi nhiều nhất. Khi mang vào trại, cô ta trao trực tiếp cho người nhận hoặc ngang qua trung gian, nhưng nhất thiết người trung gian phải là tù chính trị chớ tuyệt nhiên không dính dáng đến tên “cai tù” nào khác.
Một hôm, anh bạn trẻ tên Quế đến nhờ tôi: 
“Anh ơi! Hôm nay con Thanh nó mang vô cho em 500 đồng. Nó lấy 10%, còn lại 450 đồng em có dặn nó trao cho anh đem về giùm em”.
Tôi hỏi: “Ai thăm chú vậy Quế?”
“Dạ vợ và con em”.
“Yên chí. Tôi mang về cho chú”.
Hôm ấy Đội chúng tôi làm cỏ quanh khu vực nhà ở của “cai tù”. Cô ta đưa tù hình sự thăm nuôi về sớm, tất nhiên phải về sớm vì nếu về đúng giờ thì Đội chúng tôi vào trại. Tôi đứng ở lối đi mà cô ta phải đi ngang. Tôi hỏi:
“Có tiền của Quế đó không cán bộ?”
“Có. Anh chờ một chút”.

Cô ta vào nhà một lúc, tôi nghe như có tiếng cục đá rơi bên cạnh, quay nhìn, trông thấy cô ta đứng ở cửa sau. Rõ ràng là cô ta ngoắc tôi. Tôi lắc đầu, và chỉ tay về hướng cửa sổ nhà trẻ vì ở đó có tên Công An đang đứng. Cô ta lại ngoắc tôi lần nữa, tôi cũng lắc đầu. Thật ra nếu không có thằng Công An đứng đó tôi cũng không dám vào nhà, vì hành động đó rất nguy hiểm nếu bị bắt gặp tù trong nhà “Công An cái”. Con bé này được xem là đẹp trong số Công An “tóc dài” nên đám Công An tóc ngắn thường tới tán tỉnh. Với lại cái vụ anh Nguyễn Kim Tây làm cho chúng tôi ngại lắm. Khi em gái anh Tây nhờ cô ta mang tiền vào, cô ta gọi anh Tây vào nhà và vào hẳn sau tấm màn cô ta mới trao tiền, anh Tây “lạnh cẳng” lắm nên nắm được tiền trong tay là nhanh chân ra cửa sau. Không chuyện gì xảy ra, nhưng không phải mọi lần đều may mắn như vậy.
Một lúc sau, tay cầm bàn chải tay ôm ôm chiếc chiếu ra giếng khỏi chỗ tôi đứng khoảng 20 thước, cô ta đi sát vào tôi: 
“Anh xuống giếng với tôi”.
“Cán bộ xuống trước, tôi xuống sau”. 
Tôi nhờ anh Tây gác giùm đám Công An, nếu thấy thì báo động bằng tiếng gọi lớn hơn bình thường. Tôi xuống giếng, cô ta ngồi khuất tấm vách nhà tắm, nhanh tay đưa tôi một xấp giấy bạc mà tờ trên cùng là giấy 50 đồng: 
“Đủ rồi đó”. Trao xong, cô ta đứng dậy, bước đi. 
“Không được. Cán bộ ngồi lại chờ tôi đếm. Cán bộ đưa tôi mấy tờ?”
Cô ta trả lời chỉ một tiếng. “Chín”.
“Đủ rồi. Cán bộ đi đi”.

Tôi bảo cô ta ngồi lại vì cô ta đã đánh lừa ba người bạn chúng tôi, số tờ giấy bạc thì đúng nếu căn cứ tờ giấy bạc bên trên, nhưng mấy tấm dưới là loại giấy bạc nhỏ. 
Thêm một hành động “lừa đảo” của cô ta ngay tại nhà thăm nuôi. Có dạo Ban Giám Thị trại tự phát hành loại giấy bạc 1 đồng và 2 đồng dùng để mua hàng “căn tin” trong trại mà thôi. Chẳng hạn như vợ anh A đến thăm, gởi cho anh A 200 đồng, cô ta đưa cho anh A 200 đồng bằng loại giấy 1 đồng và 2 đồng của trại. Cách lừa đảo của cô ta là chờ đến hết giờ thăm nuôi, khi đứng lên vào trại cô ta mới đưa. Đúng vào cái lúc anh A chia tay với vợ, cũng là lúc tay xách nách mang bỏ vào xe cải tiến làm sao mà đếm được. Về buồng giam đếm lại, may lắm chỉ đến 170 hay 180 đồng là cùng. Đâu có tố cáo hay thưa kiện gì được. Cũng có trường hợp cô ta vào giao trực tiếp cho người nhận ngay trong trại, bằng cách cô ta xin gác cổng cho vào gọi thăm nuôi hay vào bệnh xá xin thuốc chẳng hạn, rồi trao tiền thường là ở hành lang nhỏ vào buồng giam 13 - 14. Trường hợp này cô ta “ăn” đến 15%. 

Cũng xin nói thêm về quyền hạn của mỗi loại Công An mà chúng tôi buộc phải gọi là cán bộ. Bước vào trong trại thì thuộc quyền toán trực trại. Đám Công An quản giáo, Công An võ trang, hay hướng dẫn thăm nuôi mỗi khi muốn vào cổng trại phải xin phép tên gác cổng. Trước khi xuất trại đi lao động hay thăm nuôi phải do “cai tù” quản giáo” hay “cai tù hướng dẫn”, nhận của “cai tù trực trại”. Ngược lại, trước khi tù vào cổng phải do cai tù liên hệ trả lại cai tù trực trại. Nhóm nào cũng có quyền với tù chính trị và tù hình sự cả. Nhìn bên ngoài là vậy, thật sự thì giữa cai tù này với cai tù kia và giữa bộ phận cai tù này với bộ phận cai tù kia, họ vừa rình rập nhau lại vừa lo sợ lẫn nhau. Cái chính sách của cộng sản là không tin vào ai cả, thậm chí ngay trong gia đình họ cũng vậy. Bởi vì cái chế độ này độc tài quá, tàn bạo quá, chỉ phục vụ đảng mà không phục dân, cho nên lúc nào họ cũng sợ sự chống đối từ tất cả mọi người mà họ cai trị, thậm chí họ cũng sợ cả những người mà họ gọi là “đồng chí” của họ nữa. 
Thế nhưng những cai tù liên quan trực tiếp với tù chính trị, có những liên hệ về quyền lợi khá sòng phẳng với tù chính trị. Bên cai tù có “cái thế” của cai tù là muốn bắt nạt tù thế nào cũng được, nhưng bên tù cũng có “cái lực” của tù là tiền bạc và vật chất do gia đình gởi đến. Nhóm chữ khá sòng phẳng, nói cho dễ hiểu là chúng tôi dùng “cái lực” của mình để đổi lấy sự dễ dãi chừng mực, tùy theo “cái thế” của mỗi bộ phận cai tù. Nhìn chung, hầu hết cai tù bất cứ thuộc bộ phận nào kể cả bộ phận giáo dục của trại, đều thèm thuồng “cái lực” của tù chính trị, nhất là “cái lực” thuốc tây với cà phê. Tạm thời trừ nhóm lãnh đạo trong cái cơ quan quyền lực có toàn quyền hoạch định và điều khiễn thực hiện chế độ, còn tất cả công dân xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc từ nhỏ đến lớn, chỉ uống mỗi một thứ thuốc có tên là “xuyên tâm liên” cho tất cả các bệnh, nên bây giờ được uống thuốc tây (âu dược) rất công hiệu và tác dụng rất nhanh. 

“Biết địch biết ta” để có quan niệm thích ứng cho cuộc sống của người tù chính trị trong xã hội xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc này, và chúng tôi đã thành công chừng mực.
Tên Đoàn, đến làm quản giáo Đội chúng tôi thay Thắng “mặt đỏ” sang Đội khác. T…[Message Truncated] View full message.
From: OpLa 8 Oct 2018 17:06
To: OpLa 22 of 34
Bốn vị cựu Tướng đến trại Nam Hà. 

Thời tiết đang vào Đông. Bất ngờ có 4 vị cựu Tướng Lãnh từ trại tập trung Hà Tây tỉnh Hà Sơn Bình chuyển đến trại Nam Hà, nhốt chung với chúng tôi. Đó là Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Thiếu Tướng Lý Tòng Bá, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, và Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang. Thiếu Tướng Đảo và Chuẩn Tướng Sang vào buồng giam số 1 (tôi ở đây) còn hai vị kia vào buồng giam số 2. Qua tin tức của hai vị Tướng, chúng tôi mới biết 29 vị Tướng Lãnh từ Liên Trại 1 ở Yên Bái, đã chuyển xuống trại tập trung Hà Tây cùng ngày với chúng tôi chuyển đến trại Nam Hà này. 
Từ hôm 4 trong số 29 vị cựu Tướng Lãnh chuyển đến trại này, lại phát sinh một số thắc mắc từ các bạn tù trẻ. Xin nói qua một chút về các bạn trẻ bị giam chung trong các buồng giam trại Nam Hà A. Đa số trong số các bạn này trong tổ chức “Phục Quốc” sau ngày 30/4/1975. Tổ chức này do bọn tình báo cộng sản tạo ra với cái tên có sức thu hút nhiều người không khuất phục kẻ thắng trận. Họ phong cấp bậc chức vụ cho những người ghi tên tham gia, cấp phát thẻ của tổ chức nữa. Sau khi nắm được đầy đủ họ tên và địa chỉ, thế là trong một đêm chúng nó bắt tất cả những ai là thành viên của “Phục Quốc”. Đa số trong số thành viên Phục Quốc bị bắt là các bạn trẻ, như: Nguyễn Minh Chí, Đinh Vượng, Đặng Hữu Nam, Nguyễn văn Tiếng, Nguyễn Văn Thuận, ..v..v... Chính mấy chú trẻ này thắc mắc “tại sao có gần 30 vị cựu Tướng Lãnh ở trại Hà Tây mà chỉ có 4 vị lại chuyển về trại này?” Và “liệu mấy vị này có phải đến đây để làm cò mồi tiếp các phái đoàn đến thăm trại tù không?” 
Thấy cựu Chuẩn Tướng Sang có vẻ buồn dù vốn dĩ ông là người ít nói, trầm tỉnh, tôi gợi chuyện:
“Thưa Anh, trong hoàn cảnh chúng mình, nhận thức của vài anh em chưa được sắc bén về một số vấn đề trong cuộc sống, nên thường kết luận khi chưa nắm được những yếu tố liên quan. Anh có thấy như vậy không?”
Ông chậm rãi:
“Tôi đồng ý với anh. Đánh giá con người mà chỉ nhìn bên ngoài, quả là phiến diện”.
Lại có một số bạn cho là cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo “ủng hộ” cộng sản khi ông vừa đánh đàn vừa hát cho nhóm quay phim từ Bộ Công An ở Hà Nội đến đây thu hình. Tất nhiên chúng nó thu hình đoạn phim này để “quảng cáo” về cái gọi là “khoan hồng nhân đạo” của chúng, cho dù chẳng có giấy tờ gì nói như vậy nhưng với cộng sản nhất là Công An sử dụng tất cả mọi hình thức để phục vụ mục đích chính trị của chúng, Về trường hợp này, nhận xét của tôi có phần khác. Tôi quen biết với anh Đảo từ năm 1962 khi tôi giữ chức Chánh Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, lúc ấy anh Đảo là Sĩ Quan Tùy Viên của Thiếu Tướng Lê Văn Kim. Anh là người rất say mê âm nhạc. Khi anh đứng trên sân khấu với cây guitare trong tay, trông anh chẳng khác người nghệ sĩ chuyên nghiệp bao nhiêu. Lần sau cùng tôi được thưởng thức tiếng đàn của anh là hôm Sư Đoàn 25 Bộ Binh kỷ niệm ngày thành lập Sư Đoàn tại căn cứ Củ Chi, anh đệm guitare cho ca sĩ Phương Hồng Quế hát. Bây giờ, cũng dáng điệu như vậy ngay trong khuôn viên buồng giam số 1 (trại Nam Hà) dưới ống kính của Bộ Công An, và một vài anh em chỉ trích phong cách của anh như là sự ủng hộ cộng sản, nhưng tôi cho rằng niềm say mê âm thanh nốt nhạc của anh vẫn như lúc nào thôi. 
Một buổi chiều, anh Đảo xách cây đàn ra góc sân lớn gần cổng ra vào trại dạo những khúc nhạc giật gân, khá đông anh em chúng tôi đứng bao quanh, tên trực trại -Trung Sĩ Lực- trông thấy. Hắn chạy vào hét lớn:
“Các anh giải tán. Vào buồng ngay”.
Một anh lên tiếng: 
“Anh em chúng tôi chơi một chút mà cán bộ”.
“Không được. Tôi nói giải tán là giải tán. Anh Đảo về buồng ngay”.
“Giải tán thì giải tán chớ có gì mà cán bộ la dữ vậy”. 
Hắn trở ra phòng trực trại, vội vàng đánh kẻng hiệu lệnh bảo tù vào buồng giam khóa lại. Mỗi lần vào buồng giam thì chúng tôi ngồi hai hàng dọc, hàng đầu ngay thềm cửa và hàng cuối tận tường rào, trông như “bầy vịt” mỗi chiều chủ lùa vào chuồng, chỉ khác một chút là chúng tôi ngồi thẳng hàng ngang dọc. Chiều nay, buồng giam số 1 chúng tôi đóng cửa sau cùng, cho nên ngồi chờ khá lâu. Tên Lực bước vào khuôn viên buồng giam với cái mặt hầm hầm, hai tay chắp sau lưng với xâu chìa khóa hằng mấy chục cái. Anh Buồng Trưởng chờ nó vào vị trí để báo cáo như thường lệ. Nhưng không, hắn đứng giữa sân một lúc rồi phát lời chửi mắng:
“Đừng có ương ngạnh mà chống cải tạo, đừng làm cái việc lấy nạng chống trời. Thằng nào, thằng nào không chấp hành nội qui, thằng nào chống cải tạo, giỏi thì đứng lên coi tao dám gông đầu cho rục xương không”.
Hắn im lặng nhưng đôi mắt cú vọ của hắn lướt từ trước đến sau rồi từ sau đến trước, và ghìm vào anh Đảo (ngồi gần hàng đầu). Thời gian lúc ấy như đọng lại, và khoảng không gian lúc ấy thật yên ắng, nhưng là cái yên ắng trong nghẹt thở. Hắn gằn giọng:
“Sao. Không thằng nào dám đứng dậy à? Đứng dậy đi, tao trị cho biết tay”.
Anh em chúng tôi vẫn im lặng. Cái không khí lắng đọng đó kéo dài thêm một lúc, anh Buồng Trưởng nhìn sang hắn, nhỏ nhẹ:
“Báo cáo cán bộ, có thể cho anh em vào được không?”
“Được”. 
Cái cung cách của Công An trại tập trung này ăn nói cụt ngủn vậy đó. Anh Buồng Trưởng Nguyễn Đức Khoái: 
“Các anh đứng dậy đi.”
Khi chúng tôi đứng dậy, cứ như bài bản mỗi chiều, anh Buồng Trưởng dỏng dạc:
“Buồng 1… Nghiêm. Báo cáo cán bộ, Buồng 1 tổng số 51. Đủ. Chờ lệnh cán bộ”.
“Được. Cho vào.” 
“Đằng trước … Bước”. 
Thế rồi sau lưng vẫn tiếng rít của thanh sắt khi kéo mạnh, vẫn tiếng crắc của ống khóa khi bấm vào. Đó là những âm thanh mà chúng tôi không bao giờ quên! Vào buồng giam, tôi nói trống không như để phá tan cái không khí yên ắng một cách ngột ngạt:
“Các anh ơi! Từ giờ phút này đến sáng mai là chúng ta được tự do trong cái cõi không gian bé tí của mình rồi”. 
Tôi nghĩ: Lúc bị tên Lực quát mắng xỉa xói, anh Đảo nên đứng dậy một cách mạnh mẽ nhận trách nhiệm cho phải lẽ với anh em. Đó cũng là cách chứng tỏ khí khái của vị Tướng quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Có quá lắm thì tên Lực hằn học chửi mắng anh chớ đâu phải nói gông là gông được.
Có phải bị mắng bị chửi riết rồi quen chăng? Không! Không bao giờ quên chớ đừng nói gì quen quí vị quí bạn à! Cái đau cái uất ức do bị …[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 17:12 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 17:15
To: OpLa 23 of 34
Niềm vui cao nhất. 

Tôi thấy cần giải thích ngay kẻo quí vị quí bạn tưởng là tôi được ra khỏi trại tập trung này. Niềm vui đó là cuối tháng 5 năm 1981, vợ tôi báo tin vắn tắt rằng hai con chúng tôi -Phạm Tuyết Vân 20 tuổi, và Phạm Bá Nghĩa 10 tuổi- sau hai ngày vượt biển đã được thương thuyền ngoại quốc vớt đưa đến Singapore bình an. Hai ngày sau nữa, vợ tôi nhận được điện tín xác nhận tin đó. Tôi nói với anh Nguyễn Kim Tây:
“Tây ơi Tây. Nhà ngươi có nhớ hồi năm ngoái vợ ta ra thăm có dắt theo con gái với thằng trai út không?”
“Có. Tuyết Vân với thằng nhóc đòi uống nước đá chớ gì”.
“Đúng. Bây giờ hai con ta tới trại tị nạn Singapore rồi nhà ngươi”.
“Nhà ngươi được thư của Chị rồi hả?”
“Anh Lê Viết Mười vừa được Chị ấy đến thăm, có mang theo thư ngắn và quà của vợ ta”.
“Vợ nhà ngươi can đảm thiệt. Cho tụi nhỏ đi từng đợt và tất cả đến nơi bình an. Đâu phải gia đình nào cũng có cái may mắn tròn vẹn ấy. Còn thằng ở trại tị nạn Phi Luật Tân đến Mỹ chưa?”
“Nó đến Houston hồi tháng 3 (1981) ở chung với hai anh nó. Ta quên nói với nhà ngươi”.
“Vậy là nhà ngươi ăn mừng chớ?”
“Tất nhiên. Ngay tối nay. Mình ăn bánh uống trà với cà phê trong gói quà mà anh Mười vừa mang vào giùm chiều nay”.


HQPD_1333439274.pngTháng sau đó, tôi nhận được thư của vợ tôi do chị Nguyễn Tài Lâm mang ra và chui qua chú tù hình sự vào “hộp thư chết”. Trong đó có thư của con gái tôi thuật lại rằng: 
“Bác Trại Trưởng và một bác nữa nói là bạn cũ của Ba. Hai bác trợ giúp tụi con về thủ tục giấy tờ nhanh chóng lắm nên Con hi vọng sang Hoa Kỳ sớm”. 
Con tôi không nói tên hai bạn ấy, có lẽ nó sợ cộng sản kiểm soát thư vì thư gởi về Sài Gòn, trước khi đến tôi. Cuối năm 2007, khi viết đến đoạn này, tôi có hỏi con gái tôi (năm nay 46 tuổi) về tên của hai anh bạn giúp nó hồi năm 1981, nhưng con tôi chỉ nhớ như tôi đang nhớ. Vì vậy, tôi nhờ những dòng chữ này chuyên chở lời cám ơn chân thành của vợ chồng tôi đến hai bạn ấy, cùng tất cả những bạn nào đã giúp đỡ các con chúng tôi lúc chạy nạn cộng sản, trong khi tôi bị nhốt trong trại tập trung mà cộng sản gọi là trại cải tạo.
Nhóm chữ “chạy nạn cộng sản” dường như chưa phơi bày hết tính chất độc tài tàn bạo của cộng sản nói chung, và cộng sản Việt Nam nói riêng, có lẽ phải dùng nhóm chữ “cộng sản là thảm họa của nhân loại” mới đúng. Nói ngắn gọn là “thảm họa cộng sản”. Trong tập nhật ký Rồng Rắn của ông Trần Độ, cựu Trung Tướng cộng sản viết trong năm 2000 và 2001. Ông nêu rất nhiều câu hỏi với chính ông liên quan đến chủ nghĩa xã hội mà lãnh đạo của ông tự tôn vinh là ưu việt, nhưng sau 25 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội mà người dân ngày càng kiệt quệ, xã hội ngày càng suy đồi? Và ông nêu câu hỏi với lãnh đạo của ông:
“Tại sao chỉ có từ các nước xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là từ Việt Nam, có đến hằng mấy triệu người bất kể hiểm nguy sống chết trốn chạy tìm đường sống ở các nước khác? 

Vì là thảm họa của nhân loại, nên quốc gia nào bị cộng sản cai trị thì y như rằng, các thành phần trong xã hội đều tìm mọi phương cách chạy trốn. Dĩ nhiên không phải muốn chạy là chạy được vì nhiều yếu tố liên quan, chẳng hạn như: Lòng can đảm chấp nhận hiểm nguy bất trắc với mức độ rất cao của người quyết tâm ra đi cũng như của người thân còn lại, tiền bạc, âm thầm tìm tổ chức đưa người vượt thoát, phương cách vượt thoát từ nhà đến địa điểm hẹn mà tránh bị Công An rình rập bắt bỏ tù, thậm chí bị chúng bắn chết tại chỗ, người còn lại phải có cách đối phó với đám Công An địa phương, ..v..v... 

Đầu tháng 09/1981, sau hơn 3 tháng ở trại tị nạn trên đảo quốc Singapore, hai con tôi đến Houston. Thế là các con chúng tôi: Tháng 4 năm 1980 hai con trai vượt biển đến Thái Lan, tháng 10 cùng năm một con trai vượt biển đến Phi Luật Tân, tháng 05/1981 một con gái và một con trai vượt biển đến Singapore, tất cả các con chúng tôi -bốn trai và 1 gái- cùng đến Houston, với sự giúp đỡ của các em tôi là vợ chồng Phạm Phi Long, vợ chồng Phạm Thu Nguyệt, và em út Phạm Bá Sáng, định cư tại đây từ những năm trước đó. Bốn đứa con lớn, vừa đi học vừa đi làm, đứa nhỏ nhất học tiểu học. 
Với nỗi vui mừng tột độ đó, tôi viết trang thư gởi “chui qua hộp thư chết” ra nhà thăm nuôi, nhờ mang về Sài Gòn để vợ tôi gởi sang Hoa Kỳ cho các con tôi. Nội dung gồm những lời khen tặng vợ tôi, cũng là vừa khen vừa khuyến khích các con tôi bắt đầu hành trình “xây dựng tương lai”. Sau khi đọc đi đọc lại mấy lần, tôi nắn nót từ trang thư thành “trang thơ tự do”, với tựa “Dù Thế Nào Anh Vẫn Nhận Ra Em”: 

Vào một ngày nắng hạ
một chín bảy lăm (1975)
Anh phải đi “học tập”
Em ở lại cùng con
Một vòng tay, hai nụ hôn từ giã
Em đứng nhìn, đôi mắt đỏ long lanh
Em nghẹn ngào:
bởi vì đâu, hai đứa phải chia tay Anh hởi?
liệu cuộc đời, bước ngoặc có xa không?
Anh nói khẽ:
hoàn cảnh mình, ai biết được ngày mai
ta hẳn biết, sẽ sum vầy sau ba mươi ngày xa vắng! (1)

***
Nhưng
chẳng phải ba mươi ngày
cũng chẳng phải ba năm (2)
mà là một trăm bốn mươi bảy tuần trăng tròn khuyết (3)
Đó là thời gian
cũng là cuộc sống
Cuộc sống ấy, với biết bao gian khổ
Bủa vây Em, mà Em phải xông pha
Là vợ người chiến sĩ
hai mươi năm dài binh nghiệp (4)
tích lũy dần, đức tính đảm đương
Bằng tình yêu Chồng, và tình Mẹ thương Con 
Em chấp nhận cuộc đời
dẩm lên mà bước
đạp xuống mà đi
và Em đi thật vững
Với Anh
dù ngàn dặm xa xôi cách trở
dù nắng hạ oi nồng
dù rét buốt mùa đông
Em vẫn đến thăm chồng
bằng tất cả tâm hồn trong sáng ấy
Với Con
dù trên lằn ranh tù ngục
dù trên lằn biên sống chết
dù ray rứt tâm tư
bởi tình thương người Mẹ
Nhưng
vì tương lai con trẻ 
Em tập trung nghị lực
vẫn lệ nhòa, khi tiễn các Con đi

***
Các Con này
đường tương lai trước mắt
Phải trau dồi Kiến Thức
Đạo Đức phải vun bồi
Và giũa mài Nghị Lực
phải
…[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 18:10 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 17:19
To: OpLa 24 of 34
Tên võ trang đi trước, tôi theo sau. Băng qua làng người cùi, ngang qua khu rừng chồi, bắt đầu vào khu vực Đội 4 Nông Trường Trà ở thượng nguồn thung lũng. Hắn mặc đồ Công An, tôi mặc quần áo tù. Đứng trước gian nhà thật nhỏ ngay đầu dãy, đang có sáu cô gái ngồi bên trong. Một trong sáu cô gái vui vẻ:
“Chào anh Minh”. Rồi cô ta nhìn tôi: “Chào anh”.
Tên Minh đưa tay về phía tôi: 
“Giới thiệu với các cô, đây là anh Hoa”.
Cô vừa chào, lên tiếng: 
“Mời anh Minh và anh vào. Các anh thông cảm cho cảnh nghèo của chúng em nhé!”
Tên Minh có vẻ nịnh đầm: 
“Sao hôm nay cô Lan rào đón thế?” 
Hai cô cầm hai chiếc ghế đẩu mời ngồi cạnh cái bàn già nua ọp ẹp, trong khi bốn cô kia ngồi chung trên cái giường cá nhân mà tuổi đời với phẩm chất của nó cũng tương đương với cái bàn. Tên Minh hỏi:
“Tất cả các cô ở chung gian nhà này à?”
Cô gái tên Lan trả lời: 
“Không anh à! Mỗi gian chúng em ở hai hoặc ba người. Gian này em ở với chị Ánh. Đây là nhà ở, vừa là văn phòng của Đội 4”.
Cô ta quay sang tôi: 
“Mời anh dùng chè. Anh có dùng chè xanh được không? Ở đây chúng em nghèo lắm, chè này nếu phải mua chúng em cũng không có tiền mua đâu. Đây là chè xanh trên mấy ngọn đồi mà các anh vừa đi qua đấy”.
Từ nảy giờ tôi im lặng dò xem thái độ các cô gái này đối với tôi xem sao, vì trông vào bộ đồ của trại tù tất nhiên các cô này đoán biết tôi là tù. Các cô nhìn tôi, nhìn thẳng lẫn nhìn lén. Có lẽ các cô muốn nhận biết người miền Nam như thế nào, cho dẫu người miền Nam đang đối diện với các cô là tù chính trị. 
“Cám ơn các cô. Đến nay là hơn 7 năm tôi ở trong các trại trên đất Bắc, tôi uống trà xanh này khá nhiều. Có nghĩa là tôi uống được. Còn các cô than nghèo, thật ra đất nước nghèo, người dân nghèo, điều này cả nước biết mà. Tôi xin hỏi, các cô có biết tôi là thành phần nào ở vùng này không?”
“Dạ có, vì nơi anh ở là trại Ba Sao, nơi anh đang ngồi là nhà chúng em ở Nông Trường Ba Sao, nên chúng em biết”. 
“Vâng. Cám ơn các cô”.
Cô Ánh hỏi tôi: 
“Anh có đến đây lần nào chưa?”
“Đây là lần đầu tiên. Chẳng lẽ cô nghĩ tôi muốn đi là đi được sao?”
“Xin lỗi anh”. Im lặng một lúc, cô ta nói tiếp:
“ Chắc anh chưa biết hoàn cảnh của chúng em. Trong Đội 4 này có 102 công nhân, nhưng có đến 100 nữ mà chỉ có hai nam công nhân thôi …”. 
Tên võ trang cắt ngang dường như nó quê vì không cô nào nói chuyện với nó: 
“Trong số 100 cô, có bao nhiêu cô có chồng?”
“Chỉ có hai chị có chồng”. Cô Lan trả lời.
“Buồn nhỉ?”
“Anh nói anh buồn hay anh nói chúng em?”
Tên Minh ú ớ mãi mà chưa trả lời, tôi mĩm cười:
“Có lẽ cán bộ Minh muốn làm người thứ 3 lập gia đình ở đây nhưng chưa rõ ý các cô ra sao thì phải”.
Cô tên Ánh nói như một lời than: 
“Không ai đến đây với chúng em đâu anh!”
Ngưng một lúc, dường như cô ta đang xúc động!
“Chúng em biết số phận của chúng em trong xã hội này lắm anh. Có khi cả năm mới có một vài anh vì lý do gì đó mới tạt vào đây, chứ chẳng anh nào muốn làm bạn với những cô gái lam lũ quanh năm chỉ quanh quẩn những đồi chè như chúng em đâu!”
“Tôi là người miền Nam, nhưng các cô đừng nghĩ là tôi quá lời về miền Nam chúng tôi. Miền Nam chúng tôi có rất nhiều đồi trà mênh mông bao quanh thành phố Plei Ku và vùng Bảo Lộc, mà là có từ bốn năm chục năm trước. Nhưng ngay trong mấy chục năm chiến tranh mà công nhân vẫn có mức sống cao cùng với mọi tiện nghi trong gia đình, và hưởng mọi tiện nghi tân tiến trong xã hội nữa. Thật lòng mà nói, tôi không hiểu tại sao đời sống của các cô như thế này?” Tôi xin hỏi thêm, theo các cô thì những cô gái ở các vùng khác có cuộc sống khá hơn các cô ở đây không?”
Tên võ trang lên tiếng: 
“Tại vì chế độ trong đó thoáng hơn”.
Tôi đáp với chút ngạc nhiên: “Có thể là như vậy”. 
Lẽ ra tôi phải nói chính xã hội chủ nghĩa làm cho dân nghèo, đất nước nghèo, nhưng dù gì thì thằng này cũng là Công An cai tù, nói như vậy cũng đủ rồi. Câu của hắn vừa rồi, không hiểu là hắn muốn bẫy tôi, hay trong lúc bất chợt hắn bộc lộ nhận thức chính trị trong con người thật của hắn? Hắn hỏi tôi:
“Anh có đọc bài báo viết về Nông Trường Chè Sông Bôi chưa?”
“Có, vì tôi phụ trách đọc báo trong buồng giam”.
Cô tên Lan hỏi tôi: “Bài báo nói gì vậy anh?”
“Tôi không biết là có nên nói hay không nữa”. 
Đó là cách gợi thêm tính tò mò của cô ta nên tôi bỏ lửng như vậy. Tên Minh châm mồi:
“Bài báo nói bên Nông Trường Sông Bôi có đến mấy trăm cô chưa chồng đó mà”.
Cô Lan tỉnh bơ: 
“Tưởng gì chứ tin đó bình thường thôi. Hiện giờ công nhân nữ ở Nông Trường nào cũng thế đấy. Bộ anh Minh tưởng Nông Trường này ít à!”
“Tôi thấy bài báo nói ở đó hơn 400 cô chưa chồng, nhưng không thấy nói tổng số các cô ở đó là bao nhiêu nên chưa thể nói là nhiều hay ít”. 
“Họ nói chưa đúng đâu anh …..”. 
Tên Minh cắt ngang: 
“Chẳng lẽ cứ câu chuyện này mãi sao!
Như một lời than, cô Lan nói: 
“Thú thật với các anh, chuyện của chúng em ở cái xó rừng này quanh quẩn chỉ thế thôi. Đó là sự thật không thể chối bỏ, đến mức chúng em xem nó bình thường nên chẳng tránh né gì cả”. 
Không thể chần chờ được nữa vì phải một tiếng đồng hồ đi bộ để còn kịp giờ về trại, tôi nhắc tên võ trang ra về. Cô Lan vào trong cầm ra một bọc giấy nhỏ:
“Anh Minh cho anh Hoa nhận trà xanh đem về trại uống được không?”
“Được”. Anh Hoa nhận đi”.
Cô ta quay sang tôi:
“Anh Hoa, anh mang trà này về trại uống. Ở đây chúng em chỉ có thế”.
“Cám ơn cô. Chào các cô”. 
Sau lời chào đó, tất cả các cô bước ra cửa vẫy tay như một cử chỉ thân thiện. Trên đường về, tôi hỏi:
“Bộ thanh niên vùng này không thích cưới vợ là công nhân ở các Nông Trường sao cán bộ?” 
“Anh không biết. Thời bây giờ chẳng anh nào lao đầu vào cưới các cô không có kinh tế cơ bản cả. Tôi không rõ trong Nam các anh ra sao, nhưng ngoài này (tức đất Bắc), sắc đẹp là thứ yếu, kinh tế (ý nói có tiền) mới là chủ yếu”. 
“Cán bộ có thể nói trường hợp điển hình được không?”
“Bất cứ cô nào trong số đó, nếu chuyển sang làm mậu dịch viên (tức là đứng bán hàng) là tôi cưới ngay. Làm mậu dịc
…[Message Truncated] View full message.
EDITED: 8 Oct 2018 17:20 by OPLA
From: OpLa 8 Oct 2018 17:22
To: OpLa 25 of 34
Màn kịch thứ hai.

Sau đoạn phim về trận banh tạp nham với hai tổ dịch thuật và văn nghệ, đến đoạn phim tù chính trị ăn cơm chiều với “thực đơn” đặc biệt. Đám trực trại cho dọn cái gọi là nhà ăn của buồng giam số 1, để ở đó một cái bàn với sáu ghế ngồi. Cả mấy trăm tù chính trị mà chỉ có một bàn ăn duy nhất, làm sao che giấu cái bản chất dối trá trước phái đoàn truyền thông quốc tế? Vậy mà họ vẫn cứ thực hiện. Sáu anh tù chính trị được chỉ định ngồi vào bàn ăn “kịch cởm” này, họ bắt phải mặc áo quần mà họ nói là đẹp nhất. Tôi với cụ Hoàng Văn Úy đến từng anh thuyết phục nên mặc đồ thường thôi, vì hy vọng đoàn quay phim này sẽ có tác dụng thuận lợi cho mình khi họ phổ biến trên hệ thống truyền thông thế giới. Các bạn đồng ý, nhưng cũng cố gắng một chút tươm tất, nếu không sẽ không yên với đám an ninh của trại. 
Tôi và anh Đặng Hoàng Long đứng nhìn nhóm Thụy Điển thu hình. Anh chàng chuyên viên chỉ đưa ống kính quét một lượt phần trên bàn, rồi anh ta ngồi bệt trên sàn xi-măng, đưa ống kính vào các ống chân bàn chân của “thực khách” và thu thật chậm nên không sót bàn chân anh nào cả. Đó là những bàn chân nứt nẻ bị bùn đen bám vào, cộng với nước phèn ngấm vào da, làm cho những bàn chân trở nên sàm sở, và người quay phim khai thác một cách rất nghệ thuật về những chứng tích không thể chối cải trong trại tập trung của cộng sản Việt Nam. 

Màn kịch thứ ba.

Lúc ấy trời tối hẳn, vì mùa đông nên thì giờ ban ngày ngắn hơn thì giờ ban đêm. Họ hoàn toàn thu hình mà không hỏi bất cứ ai về bất cứ điều gì. Nhóm quay phim Thụy Điển yêu cầu Công An cho mở các phên cửa sổ để có chút ánh sáng thu hình vài sinh hoạt trong buồng giam số 1. Nghe thông dịch xong, tên Công An từ Hà Nội xuống ra lệnh cho Công An trại:
“Không được. Nói với chúng nó nếu mở tấm phên thì mấy anh này chịu lạnh không nỗi”. 
Thật ra không phải đám Công An Hà Nội sợ tù chính trị chúng tôi lạnh đâu, và đây là bằng chứng vẫn do tên Công An Hà nội nói:
“Bọn này ghê lắm! Chúng nó quay toàn những cảnh không như Bộ hướng dẫn chúng nó trước khi vào trại. Không cho chúng nó quay nữa”. 
Sau cái lệnh không cho mở tấm phên cửa sổ, anh chàng chuyên viên thu hình Thụy Điển cao lêu nghêu, lặng lẽ ra chỗ xe của anh ta ngoài sân đem vào cái ống trắng giống ống đèn néon nhưng lớn một chút, dài khoảng 6 hay 7 tấc gì đó. Hóa ra cái ống ấy là đèn điện tử, tỏa một vùng ánh sáng thật dịu nhưng thật mạnh trong khoảng chừng một thước vuông, đủ để họ lần lượt thu hình 3 quang cảnh. 
Cảnh 1 là anh Đặng Hoàng Long (họa sĩ và là thông dịch viên Anh ngữ) cùng với một bạn nữa (dường như là anh Bửu Uy) đang đánh cờ tướng. 
Cảnh 2 là anh Nguyễn Hữu Vị (Trung Tá, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo) có hàm râu dài trắng phếu, đang ngồi vá chiếc áo mùa đông, trông thật là buồn! 
Và cảnh 3 là anh Phạm Văn Thuần (Đại Tá, Phủ Thủ Tướng) dưới ánh đèn leo lét đang cắm cúi viết “thư tình già” gởi về cho “má bầy trẻ”. Cái gọi là bàn viết của anh Thuần chỉ là cái mền chồng lên cái gối do mấy bộ quần áo tù cuộn lại. (Mấy tháng sau đó, con gái của anh Vị từ Paris gởi về anh Vị tấm ảnh “anh ngồi vá áo” do chụp lại từ trong tivi mà cuộn phim đó trình chiếu trên hệ thống tivi nước Pháp). 
Trước khi rời trại, một anh chàng trong nhóm quay phim của Thụy Điển cầm cái micro dài, đứng giữa sân áng chừng 5 phút trong khi anh chàng quay phim thu hình anh ta. Trại trưởng Bùi Dênh nói với đám trực trại đang đứng nhìn:
“Cứ để nó thu, cho nó thấy sự yên tĩnh trong trại. Điều đó tốt thôi”.
Hôm sau, các Đội xuất trại xong, tên Niệm -phụ trách giáo dục của toàn trại- vào tổ văn hoá:
“Anh Hoa. Anh Vũ Tiến Phúc có đi lao động không?”
“Tôi không biết cán bộ”. 
Hắn quay sang tên Lực trực trại: 
“Đồng chí Lực, cho người xuống đồng tìm anh Phúc, bảo về trại ngay”.
Nửa giờ sau, hắn nói với anh Phúc đang đứng trước mặt:
“Anh đã có tiến bộ về tư tưởng thông qua phóng sự do đài truyền hình Cần Thơ thực hiện hai tháng trước. Ông Bộ Trưởng (Công An) xem xong đoạn phim đó ra lệnh thả anh về. Anh tiến hành thủ tục ra trại ngay hôm nay để cùng về với toán kia”.

Xin nói thêm một chút. Khoảng năm 1977, lúc bị nhốt trong trại tập trung trên Yên Bái, anh Vũ Tiến Phúc có nói với tôi rằng, anh có liên hệ gia đình với cộng sản Võ Trần Chí, Bí Thư thành ủy Sài Gòn mà chúng nó lắp cái tên ông Hồ thay vào chữ Sài Gòn. Theo người nhà của anh cho biết, thì Võ Trần Chí muốn lãnh anh ra trại nhưng anh không đồng ý. Anh nói anh không muốn dính dáng tới cộng sản dù là anh em. 
Về đoạn phim mà tên Niệm gọi là “phóng sự”, thật ra anh em tù chính trị chúng tôi không ai biết về cuộc phỏng vấn của đài truyền hình Cần Thơ tại trại Nam Hà A này cả. Chỉ biết là họ có thu hình anh Vũ Tiến Phúc và anh Lâm Chánh Ngôn (Đại Tá, Sư Đoàn 21 Bộ Binh). Hôm đó là buổi chiều, họ thu hình hai anh đứng cuốc đất trên khoảng đất nhỏ xíu ngay góc cái giếng lớn cạnh cổng chánh của trại. Khoảng đất “đầu thừa đuôi thẹo” chút xíu xìu xiu này chưa bao giờ trồng trọt gì cả. Còn phỏng vấn lúc nào và ở đâu, chúng tôi hoàn toàn không biết. 
Nếu cho rằng đài truyền hình Cần Thơ muốn phỏng vấn những cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa từng phục vụ vùng đồng bằng Cửu Long mà đài truyền hình này xem là địa phương, thì đâu phải chỉ có anh Phúc với anh Ngôn, mà có các anh Nguyễn Văn Của, Nguyễn Văn May, Huỳnh Thanh Sơn, và nhiều nữa. Phải chăng đó chỉ là cách nói của trại như là lý do ra về của anh Phúc do ông Bộ Trưởng Bộ Công An “tử tế và rộng lượng quá”, chỉ cần lúc nhàn hạ ngồi xem một đoạn phim là đủ yếu tố để quyết định thả tù, loại tù mà ông Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố là không thể tha thứ. 

Buổi trưa, tất cả các anh rời trại chuyến thứ hai, cộng thêm anh Vũ Tiến Phúc, tập trung ở khuôn viên buồng 10 chờ lên xe ra Phủ Lý. Đám trực trại không cho tiếp xúc với anh em còn ở lại. Lệnh là như vậy, nhưng giờ trưa chẳng có tên nào vào trại, thế là anh em chúng tôi tha hồ nhắn gởi về nhà. 
Khi tập trung để đám trực trại điểm số, cũng là lúc nhóm quay phim Thụy Điển làm công việc thu hình. Nhóm này thu hình khi anh em ra cổng trại đi bộ lên chỗ xe buýt đậu trước nhà tên Lưu Văn Hán, trại trưởng toàn…[Message Truncated] View full message.
From: OpLa 8 Oct 2018 17:23
To: OpLa 26 of 34
- tám -

Ra khỏi trại tập trung
*****

Ánh sáng ngoài đường hầm.

Từ lúc ở trại tập trung Yên Bái, cứ vài ba ngày thì bộ chỉ huy trại cho mượn vài tờ báo Nhân Dân để đọc, và các bạn trong lán giao tôi trách nhiệm điểm và đọc báo cho anh em trong lán nghe sau cơm chiều. Khi chuyển đến trại tập trung Nam Hà này, các bạn trong buồng giam số 1 cũng giao tôi trách nhiệm điểm và đọc báo. Hằng tuần có được ba hay bốn ngày có báo, mỗi lần có ba bốn số báo thì anh Nguyễn Hữu Vị với anh Bửu Uy cùng đọc với tôi sau khi cửa buồng giam đóng lại. Khi điểm bài báo nên đọc, tôi đánh số thứ tự để luân phiên giữa ba anh em chúng tôi lần lượt đọc.
Hôm ấy là ngày 5 tháng 8 năm 1987, trên tờ Nhân Dân của đảng cộng sản Việt Nam có mẫu tin mà sau khi đọc xong chúng tôi phải ngưng lại vì các bạn bàn luận rất sống động. Mẫu tin có nội dung thế này: 
“Ngày 2 và 3 tháng 8 năm 1987, Tướng hồi hưu Vessey, với tư cách Đặc Sứ của Tổng Thống Hoa Kỳ sang Việt Nam, gặp Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch. Hai bên thỏa thuận đầu tiên về hợp tác đẩy mạnh công cuộc tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam, và vấn đề trả tự do cho những người học tập cải tạo để cùng gia đình được xuất ngoại sang Hoa Kỳ theo nguyện vọng”.. 
Đại để mẫu tin chỉ có thế, nhưng quá đủ để anh em chúng tôi bàn luận đến nửa đêm mới dừng lại để ngủ. Cho dẫu mức độ lạc quan như thế nào đi nữa, rõ ràng là hình ảnh những đoàn tù chính trị ra khỏi nhà tù có cơ đang thành tựu. Tôi nói “có cơ thành tựu” vì tuần vừa qua, có một toán Công An nghe nói thuộc cơ quan A16 từ Bộ Công An đến trại này và đang công tác ở đây. Toán này đã gọi một số bạn ra ngoài trại “làm việc”, tức là hỏi mỗi người chúng tôi một số vấn đề theo nhu cầu của họ. Những năm trước đây đã có những lần Công An từ Hà Nội đến đây gọi “làm việc”, nhưng lần này đang trong thời gian gọi “làm việc” cùng lúc có bài báo nói trên nên anh em chúng tôi có lòng tin “cơ hựu thành tựu”. Hôm qua, họ cũng gọi tôi, và nội dung “làm việc” như thế này:

“Chào anh. Anh có phải là Phạm Bá Hoa không?”
“Đúng, tôi là Phạm Bá Hoa”.
“Anh mạnh khỏe chứ?”
“Cám ơn cán bộ, tôi vẫn khỏe”.
“Tôi hỏi anh: Nếu như nhà nước cho anh về, anh có đi nước ngoài không?”
“Tôi đi nếu nhà nước cho phép, vì tất cả các con tôi đều ở Mỹ”.
“Nếu anh đoàn tụ với các con anh ở Mỹ, anh có chống lại nhà nước Việt Nam không?” 
“Khi tôi ở ngoại quốc làm sao chống lại nhà nước được cán bộ”. 
“Anh có cam kết là anh không chống lại nhà nước Việt Nam không?”
“Tôi cam kết”.
“Được. Anh mang tờ giấy này vào trại viết tóm tắt lý lịch của anh, tóm tắt hoạt động của anh, và cuối cùng là anh cam kết không tham gia các tổ chức chính trị chống lại nhà nước Việt Nam. Chiều mai đưa lại tôi”.
“Cán bộ vào lấy hay tôi ra đây đưa cán bộ?”
“Sẽ có cán bộ vào trại nhận”.


Tôi nghĩ, chính trị vẫn là chính trị, mà chính trị thì không như khoa học hay toán học, 1 với 1 là 2. Với chính trị, 1 với 1 có thể là 1, cũng có 1 thể là 1 rưởi, cũng có thể là 2. Tại Việt Nam tôi cam kết là một việc, còn làm việc gì khi tôi ở Hoa Kỳ là việc khác. Với lại họ bảo tôi cam kết không tham gia các tổ chức chính trị chớ đâu có cam kết không tham gia các tổ chức khác. 
Toán Công An đó gọi khoảng 200 anh em tù chính trị chúng tôi ra làm việc, tức khoảng một nửa tù chính trị tại trại Nam Hà A.
Đến trước ngày cuối tháng 08/1987, họ gọi tôi ra hỏi:
“Anh có xác định là anh không vượt biên chứ?”
“Có”. 


Chữ có mà tôi dùng ở đây, có thể hiểu theo hai nghĩa: Có xác định, cũng là có vượt biên.
Lần này họ chỉ hỏi câu duy nhất đó. Tôi không biết hắn có hỏi các bạn khác hay không. Tôi lại bàn luận với cụ Hoàng Văn Úy, chẳng lẻ chúng nó lại hỏi một câu gần như vô nghĩa như vậy. Phải chăng chúng nó hình dung đến lúc nào đó bỗng dưng tôi biến mất ở Sài Gòn chăng? Tôi với Cụ Úy và anh Đinh Tiến Dũng, ăn cơm chung từ năm 1985. 
“Có vẻ chúng nó nghi ngờ ông điều gì đó. Cẩn thận nghe”.
Sau khi toán Công An đó về Hà Nội, trong anh em chúng tôi có biết bao đồn đoán nhưng không phải là hoàn toàn vô căn cứ, chẳng hạn như:
“Tụi hậu cần mới chở về kho 246 bộ quần áo mà nguồn tin nói rõ là áo chemise trắng, và quần áo này sẽ phát cho những anh được trả tự do”.
“Nói nghe như thiệt vậy mấy cha”.
“Nghe sao thì thuật lại các anh cùng nghe để xem có những nguồn tin khác nữa không, có gì đâu mà nói như móc họng vậy”. 
“Tôi nghe nói có nhóm quay phim của Bộ Công An xuống đến trại rồi, và họ sẽ vào trại thu hình anh em chúng mình đó”.
“Bạn nào có được gọi làm việc kỳ này đều có hi vọng được về thôi”.
“Các anh bệnh hoạn già yếu chắc về nhiều, vì vài hôm nay tụi y tế lập hồ sơ và tái khám hầu hết số anh đau yếu đấy”.
“Và vân vân”.
Trên đây là tóm tắt rất nhiều đồn đoán trong buồng giam số 1 chúng tôi.
Và rồi nhóm quay phim từ Hà Nội xuống thiệt. Họ xuống khu trồng rau thu hình một vài Đội Rau Xanh. Còn trong trại thì họ thu hình một số sinh hoạt trong buồng giam số 1 và số 2. Thu hình ở chỗ đọc sách bên Tổ Văn Hoá. Họ bảo chúng tôi đá banh cho họ thu hình nữa.

Chiều ngày 1 tháng 9 năm 1987, tên Sáng, cán bộ giáo dục:
“Anh Hoa, phái đoàn Bộ Công An mang lệnh tha đến trại rồi, nhưng các phong bì còn niêm kín nên Ban Giám Thị cũng như các cán bộ chưa ai biết gì cả. Tối nay, anh sẳn sàng với các anh trong tổ văn hoá, khi có lệnh thì sang hội trường cắt dán khẩu hiệu biểu ngữ và các công tác cần thiết khác”.
Đêm đó, tôi, anh Đinh Tiến Dũng, anh Đặng Hoàng Long, anh Phan Văn Đệ, và vài anh nữa, uống cà phê, hết cà phê đến uống trà, chờ lệnh. Nhưng mãi đến nửa đêm, chẳng thấy gọi gì hết nên chúng tôi dẹp và chui vô mùng.
Sáng hôm sau, 2 tháng 9, anh Dũng và hai bạn của tổ văn nghệ, được lệnh lên nhà tên Hán trại trưởng để trang trí. Trong lúc đó, tên Dục -phụ tá giáo dục- cầm danh sách vào trại đưa tôi:
“Anh Hoa, anh đi gọi các anh có tên trong danh sách này, bảo ăn mặc tươm tất, phải nhanh tay càng sớm càng tốt sang tập trung tại hội trường để lên nhà ông trại trưởng nghe đọc lệnh
…[Message Truncated] View full message.